Bản án 52/2021/HS-PT ngày 29/06/2021 về tội cướp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG

 BẢN ÁN 52/2021/HS-PT NGÀY 29/06/2021 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

 Ngày 29 tháng 6 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 70/2021/TLPT-HS ngày 26/5/2021 đối với bị cáo Trần Thế Đ do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 22/2021/HS-ST ngày 12/4/2021 của Tòa án nhân dân huyện BT, tỉnh Vĩnh Long.

- Bị cáo có kháng cáo:

Trần Thế Đ, sinh năm 1985, tại huyện BT, tỉnh Vĩnh Long; nơi cư trú: Khóm N, thị trấn Q, huyện BT, tỉnh Vĩnh Long; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Thế T (chết) và bà Lê Thị H; vợ: Lê Kiều D (đã ly hôn) và 01 người sinh năm 2009.

Nhân thân: Ngày 20/10/2003, bị Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xử phạt 02 năm tù về tội vận chuyển trái phép chất ma túy và đã chấp hành xong bản án.

Tiền sự: Không.

Tiền án: 01 lần, vào ngày 13/10/2020 bị Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xử phạt 02 năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc”.

Bị cáo đang chấp hành án tại Trại tạm giam Công an tỉnh Vĩnh Long, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại Anh S, sinh năm 1976 (vắng mặt) Chị T, sinh năm 1973 (vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 6, ấp N, xã T, huyện BT, tỉnh Vĩnh Long.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án : Anh N, sinh năm 1976 (vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 13, ấp N, thị trấn Q, huyện BT, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do muốn có tiền mua ma túy sử dụng nên Trần Thế Đ nảy sinh ý định cướp tài sản của người khác để bán lấy tiền tiêu xài. Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 08/11/2020, Đ chạy xe mô tô biển số 64K1- …38 trên đường đal liên xã theo hướng từ Bệnh viện đa khoa huyện BT (gần quốc lộ 54) vào khu vực ấp N, xã L, huyện BT, tỉnh Vĩnh Long tìm tài sản để cướp. Khi đến gần cầu R thì thấy anh S chạy xe mô tô biển số 64H9-…90 chở vợ là chị T ngồi phía sau. Anh S chạy xe qua mặt Đ thì Đ tăng ga chạy vượt lên, khi đến giữa cầu R thì Đ ép và cúp đầu xe của anh S vào lan can cầu (cầu có bề rộng khoảng 2,66 mét) rồi Đ dựng xe của Đ xuống dùng tay đánh nhiều cái vào người anh S và đánh trúng một cái vào mặt chị T khiến vợ chồng dựng xe bỏ chạy bộ xuống dốc cầu.

Đ đuổi theo và lượm 01 cục gạch tiểu dưới dốc cầu tiếp tục đánh anh S làm điện thoại Iphone 7 màu trắng của S trong túi áo rớt xuống lộ, Đ liền lượm điện thoại rồi đi bộ ngược lên cầu R để lấy chìa khóa xe của anh S nhằm để anh S không rượt theo Đ và Đ lên xe chạy về căn chòi của Đ để cất giấu điện thoại vừa lấy được. Lúc này, anh S và chị T có truy hô lên nhiều lần thì người dân ở gần đó có chạy ra nhưng Đ đã chạy đi. Sau đó, vợ chồng anh S đến Công an xã L để trình báo sự việc. Công an xã lập biên bản tiếp nhận tin báo và báo về Công an huyện BT để thụ lý giải quyết theo thẩm quyền.

Căn cứ vào Kết luận định giá tài sản số 39/KL.ĐGTS ngày 31/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện BT thì 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7, màu trắng bạc, màn hình cảm ứng có giá trị là 2.500.000 đồng.

Qua xác minh, Cơ quan điều tra Công an huyện BT xác định Trần Thế Đ là người đã thực hiện hành vi cướp tài sản của anh S, chị T. Sau khi mời làm việc, Đ đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Xét thấy đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên vào ngày 12/11/2020 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện BT ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Đ về tội “Cướp tài sản” và ra lệnh bắt tạm giam điều tra cho đến nay.

Trong quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra giải quyết được: Chìa khóa xe của anh S đã bị Đ lấy rồi vứt bỏ và nay anh S không yêu cầu bồi thường; 01 cục gạch tiểu mà Đ dùng để đánh anh S, chị T thì Đ đã vứt bỏ, nên Cơ quan cảnh sát điều tra không thu hồi được; xe mô tô biển số 61K1-…38 của N (anh ruột của Đ) cho Đ mượn để làm phương tiện đi lại và Đ lấy xe đi cướp tài sản thì anh N không biết; 01 điện thoại di động Iphone 7 màu trắng của anh S thì Cơ quan điều tra đã trả lại xong.

- Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2021/HS-ST ngày 12/4/2021 của Tòa án nhân dân huyện BT, tỉnh Vĩnh Long đã tuyên xử:

Tuyên bố bị cáo Trần Thế Đ phạm tội “Cướp tài sản”.

Căn cứ vào điểm d, h khoản 2 Điều 168; Điều 38; điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Xử phạt bị cáo 05 (năm) tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

Căn cứ các Điều 55, 56 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tổng hợp hình phạt của Bản án số 95/2020/HS-PT ngày 13/10/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xử phạt bị cáo 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án, được khấu trừ thời gian bị tạm giữ tạm giam từ ngày 22/6/2019 đến ngày 26/02/2020.

Buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày 12/11/2020. Bị cáo được khấu trừ thời gian bị tạm giữ tạm giam từ ngày 22/6/2019 đến ngày 26/02/2020. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, biện pháp tư pháp, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Ngày 19/4/2021, bị cáo Trần Thế Đ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

- Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và xác định Tòa án cấp sơ thẩm xử bị cáo là đúng tội, không oan sai nhưng mức hình phạt là nặng, nên bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

- Quan điểm của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa:

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm số 22/2021/HS-ST ngày 12/4/2021 của Tòa án nhân dân huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long. Tuy nhiên, về thời hạn chấp hành hình phạt tù được điều chỉnh lại cho phù hợp với ngày bị cáo chấp hành án là ngày 09/11/2020. Do cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm nên bị cáo kháng cáo phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm là 200.000 đồng. Riêng các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo không tranh luận và lời nói sau cùng của bị cáo là xin giảm nhẹ mức hình phạt để bị cáo sớm trở về đoàn tụ lo cho già đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của kháng cáo: Bị cáo Đ nộp đơn kháng cáo đúng thủ tục và thời hạn quy định tại Điều 332 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, nên được chấp nhận để xem xét theo thủ tục xét xử phúc thẩm.

[2] Bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo và vắng mặt tại phiên tòa không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan, nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt đối với họ theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 351 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm là phù hợp với các biên bản hoạt động điều tra, kết luận định giá tài sản cùng với tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở để xác định:

Trần Thế Đ đã bị kết án về tội tổ chức đánh bạc, chưa xóa án tích. Trong thời gian được tại ngoại để chấp hành án. Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 08/11/2020, tại khu vực Tổ 10, ấp N, xã L, huyện BT, tỉnh Vĩnh Long, Đ điều khiển xe mô tô biển số 64K1-…38 vượt qua xe mô tô biển số 64H9-…90 do anh S điều khiển chở vợ là chị T ngồi phía sau. Đ điều khiển xe áp sát chặn xe của anh S lại và xuống xe rồi dùng tay đánh anh S và chị T làm anh S, chị T sợ hãi bỏ xe lại chạy đi, Đ đuổi theo và lượm 01 cục gạch tiểu đánh anh S làm chiếc điện thoại Iphone 7 của S rớt xuống lộ, Đ lấy điện thoại rồi đi đến lấy chìa khóa xe của anh S nhằm để anh S không rượt theo Đ. Sau đó, Đ chạy xe của Đ về căn chòi của mình để cất giấu điện thoại. Theo Kết luận định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện BT thì điện thoại di động hiệu Iphone 7, màu trắng bạc, màn hình cảm ứng của anh S có giá trị là 2.500.000 đồng.

Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và tuyên bố Trần Thế Đ phạm tội “Cướp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm d, h khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) là phù hợp và không oan sai.

[3] Về kháng cáo của bị cáo: Xét kháng cáo của bị cáo Đ xin giảm nhẹ hình phạt, nhưng tại Tòa án cấp phúc thẩm không có tình tiết giảm nhẹ nào khác cho bị cáo. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo và đã cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội về hành vi phạm tội của bị cáo cũng như về nhân thân. Vì vậy, mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là không nặng và phù hợp luật định.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Đ và giữ nguyên bản án sơ thẩm số 22/2021/HS-ST ngày 12/4/2021 của Tòa án nhân dân huyện BT theo như đề nghị của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát. Tuy nhiên, về thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/11/2020 theo như án sơ thẩm đã tuyên cần được điều chỉnh lại là ngày 09/11/2020 cho phù hợp, vì bị cáo chấp hành án vào ngày 09/11/2020 theo Biên bản về việc người bị phạt tù đang tại ngoại đến chấp hành án (BL 125).

[4] Về án phí phúc thẩm: Do Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm nên bị cáo kháng cáo phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Thế Đ. Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 22/2021/HS-ST ngày 12/4/2021 của Tòa án nhân dân huyện BT, tỉnh Vĩnh Long.

Căn cứ vào điểm d, h khoản 2 Điều 168; Điều 38; điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố bị cáo Trần Thế Đ phạm tội “Cướp tài sản”. Xử phạt bị cáo Trần Thế Đ 05 (năm) năm tù.

Căn cứ vào các Điều 55 và Điều 56 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tổng hợp hình phạt của Bản án số 95/2020/HS-PT ngày 13/10/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xử phạt bị cáo 02 (hai) năm tù.

Buộc bị cáo Trần Thế Đ chấp hành hình phạt chung là 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09/11/2020, được trừ vào thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/6/2019 đến ngày 26/02/2020.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[2] Về án phí phúc thẩm: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự phúc thẩm.

[3] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

298
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 52/2021/HS-PT ngày 29/06/2021 về tội cướp tài sản

Số hiệu:52/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về