Bản án 52/2021/HN-ST ngày 08/02/2021 về việc tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOÀI ÂN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 52/2021/HN-ST NGÀY 08/02/2021 VỀ VIỆC TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 08 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 125/2020/TLST-DS, ngày 16 tháng 7 năm 2020, về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2021/QĐXX-HN, ngày 06 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Hồ Thị T, sinh năm 1985:

Địa chỉ: Thôn T, xã Ân Thạnh, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định:

Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

Bị đơn: Ông Nguyễn T1, sinh năm 1984:

Địa chỉ: Thôn An T, xã Ân Thạnh, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định:

Vắng mặt lần thứ 2.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 16/6/2020; các văn bản tiếp theo, nguyên đơn Hồ Thị T trình bày: Bà và ông Nguyễn T1 tự nguyện tìm hiểu, đi đến hôn nhân, đăng ký kết hôn năm 2007 tại UBND xã Ân Thạnh. Sau khi kết hôn, ông bà vào làm ăn ở Bình Dương, sống hạnh phúc được 2 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân, do ông T1 thường xuyên uống rượu, về nhà có hành vi bạo lực với vợ, con. Năm 2018, bà đã yêu cầu Tòa án nhân dân huyện huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương giải quyết ly hôn với ông T1, nhưng do ông T1 hứa sẽ sửa đổi tính tình nên bà đã rút đơn khởi kiện. Tuy nhiên, sau đó ông T1 vẫn tiếp tục có hành vi bạo lực gia đình. Từ cuối năm 2019 đến nay, hai người sống ly thân.

Về Hôn nhân: Yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông T1.

Về con chung: Bà và ông T1 có 2 con chung: Nguyễn Hồ Anh Q, sinh ngày 27/9/2012, đang ở với bà nội là Nguyễn Thị T2; Nguyễn Hồ Anh Q1, sinh ngày 30/6/2014, hiện đang ở với bà. Bà yêu cầu được trực tiếp nuôi 2 con chung, không yêu cầu ông T1 cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có tài sản chung. Về nợ chung: Không có nợ chung.

- Đối với bị đơn Nguyễn T1: Từ khi thụ lý vụ án, Tòa án đã thông báo, triệu tập bị đơn theo quy định của pháp luật nhưng bị đơn không hợp tác. Tòa án đã tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ qua chính quyền địa phương; Bà Nguyễn Thị T2 (mẹ ông T1) trình bày: ông T1, bà T phát sinh mâu thuẫn như thế nào bà không biết, bà chỉ biết cuối năm 2019, T dẫn hai con về quê sinh sống. Đầu năm 2020, T nhờ bà nuôi hộ cháu Nguyễn Hồ Anh Q, hiện cháu đang học lớp 3 trường Tăng Doãn Văn. Cháu Nguyễn Hồ Anh Q1 hiện đang ở với T. Bà có nhận được thông báo của Tòa án gửi cho T1, bà đã gọi điện báo cho T1 biết, T1 nói không ly hôn và cũng không về. Đối với bà, việc T yêu cầu ly hôn T1 thì Tòa án giải quyết theo pháp luật, bà không có ý kiến gì.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định phát biểu ý kiến: Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật Tố tụng Dân sự trong thụ lý, giải quyết vụ án; Về nội dung: Hôn nhân giữa bà T và ông T1 là hợp pháp; nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do ông T1 thường xuyên uống rượu, có hành vi bạo lực gia đình.

 Từ đó, làm cho tình cảm vợ chồng không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà Thơ được ly hôn với ông T1; Giao 2 con chung tên: Nguyễn Hồ Anh Q, sinh ngày 27/9/2012; con Nguyễn Hồ Anh Q1, sinh ngày 30/6/2014 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, anh T1 không phải cấp dưỡng nuôi con vì bà T không yêu cầu; Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bà Hồ Thị T khởi kiện ông Nguyễn T1 yêu cầu ly hôn, nuôi con chung; nguyên đơn, bị đơn có hộ khẩu thường trú tại thôn T, xã Ân Thạnh, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Hồ Thị T và ông Nguyễn T1 có thời gian tìm hiểu và tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Ân Thạnh, huyện Hoài Ân nên đây là hôn nhân hợp pháp theo quy định của luật Hôn nhân và Gia đình.

[3] Về nguyên nhân mâu thuẫn: Sau khi chung sống với nhau được 2 năm thì phát sinh mâu thuẫn, lý do ông T1 thường xuyên uống rượu, có hành vi bạo lực gia đình. Từ cuối năm 2019 đến nay, hai người đã sống ly thân.

Đối với ông T1, không hợp tác với Tòa án trong suốt quá trình giải quyết vụ án, đồng nghĩa với việc từ bỏ quyền lợi, nghĩa vụ của mình. Tại biên bản xác minh ngày 25/12/2020, chính quyền địa phương xác nhận: ông Nguyễn T1, bà Hồ Thị T và các con chung tên Nguyễn Hồ Anh Q, Nguyễn Hồ Anh Q1 có đăng ký hổ khẩu thường trú tại thôn T, xã Ân Thạnh, huyện Hoài Ân nhưng ít khi có mặt ở địa phương. Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.

Hội đồng xét xử xét thấy: Đời sống hôn nhân trên thực tế của bà T, ông T1 còn không tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được và bà T vẫn yêu cầu ly hôn nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T.

 [4] Về con chung: Bà T và ông T1 có 2 con chung, hiện nay con Nguyễn Hồ Anh Q đang ở với bà nội; con Nguyễn Hồ Anh Q1 đang với bà T. Bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi 2 con, không yêu cầu ông T1 cấp dưỡng nuôi con. Do vậy, Hội đồng xét xử thống nhất giao 2 con chung tên Nguyễn Hồ Anh Q, sinh ngày 27/9/2012; con Nguyễn Hồ Anh Q1, sinh ngày 30/6/2014 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: bà T không yêu cầu nên không xem xét.

[6] Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu nên không xem xét.

[7] Về án phí sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Nghị quyết 326/2016/ UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên: Phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên cần xem xét.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 227, Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Căn cứ các Điều 51; khoản 1 Điều 56, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Hồ Thị T.

1. Về Hôn nhân: Bà Hồ Thị T được ly hôn ông Nguyễn T1.

2. Về con chung: Giao 02 con Nguyễn Hồ Anh Q, sinh ngày 27/9/2012; Nguyễn Hồ Anh Q1, sinh ngày 30/6/2014 cho nguyên đơn Hồ Thị T trực tiếp nuôi dưỡng; Bị đơn Nguyễn T1 không phải cấp dưỡng nuôi con.

 Cha mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, các bên có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về án phí: Nguyên đơn Hồ Thị T phải chịu 300.000,đ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0006181, ngày 16/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định.

4. Quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 52/2021/HN-ST ngày 08/02/2021 về việc tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:52/2021/HN-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoài Ân - Bình Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về