TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 52/2020/HS-PT NGÀY 24/02/2020 VỀ TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC
Ngày 24 tháng 02 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 376/2019/TLPT-HS ngày 11 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo Nguyễn Đức H do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 78/2019/HS-ST ngày 25/09/2019 của Tòa án nhân dân huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai.
Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Đức H, sinh năm 1994 tại Đồng Nai; Nơi cư trú: số nhà 11/3, ấp Ph, xã L, huyện Đ, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Làm rẫy; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Đức T sinh năm 1948, con bà Nguyễn Thị Th sinh năm 1952; chưa có vợ con.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “cấm đi khỏi nơi cư trú”
Bị hại: Chị Nguyễn Thị Hoàng L, sinh năm 1999 (xin vắng mặt).
Địa chỉ: số 254/1, ấp 7, xã Ph, huyện Đ, tỉnh Đ
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: Luật Sư Nguyễn Ngọc Ph – thuộc công ty luật Hợp Danh Quốc Việt - Đoàn luật sư tỉnh Đồng Nai (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Đức H và chị Nguyễn Thị Hoàng L là bạn bè quen biết nhau và có tình cảm yêu thương nhau từ tháng 3/2017 đến khoảng tháng 10/2018 thì chia tay nhau.
Do có tình cảm yêu thương nhau nên trong khoảng thời gian từ tháng 3/2017 đến khoảng tháng 10/2018, H và chị L đã nhiều lần quan hệ tình dục với nhau ở nhiều địa điểm nhưng chủ yếu là tại nhà nghỉ A, thuộc ấp H, xã N, huyện Đ. Trong đó, ngày 10/8/2018, khi H và chị L quan hệ tình dục với nhau tại nhà nghỉ A, thì H sử dụng điện thoại di động của H quay lại đoạn video có thời gian khoảng 02 phút 30 giây để làm kỷ niệm.
Đến khoảng tháng 10/2018, do có nhiều bất đồng trong cuộc sống và tập trung cho việc học tập nên chị L chủ động chia tay và cắt đứt liên lạc với H nhưng H không đồng ý chia tay. Tức giận việc chị L chia tay, gọi điện cho chị L nhưng chị L không nghe máy nên H nhắn tin qua điện thoại và mạng xã hội Zalo, Facebook để chửi mắng chị L. Ngày 11/3/2019, H sử dụng tài khoản Facebook của H có tên “Nguyễn Đức H” gửi đoạn video quay lại cảnh H và chị L quan hệ tình dục vào ngày 10/8/2018, tại nhà nghỉ A cho chị L qua tài khoản Facebook của chị L có tên “Nguyễn Hoàng L”, với lời nhắn: “Tao sẽ gửi clip này cho bạn bè của mày”.
Đến ngày 14/3/2019, H sử dụng tài khoản Facebook “Nguyễn Đức H” gửi đoạn video trên cho tài khoản Facebook có tên “Nguyễn Nhật Ph” của anh Nguyễn Nhật Ph là anh ruột chị L, với lời nhắn: “Còn nữa, có cả clip này kia nữa, chú mày coi clip đó kẻo lại bật ngửa ra mà ói máu”. Đồng thời, H sử dụng tài khoản Facebook khác của H có tên “Vinh V” gửi đoạn video trên cho tài khoản Facebook có tên “Kiều M” của chị Phạm Thị Kiều M với lời nhắn: “L nó dưới quê ăn nằm với trai, giờ bị lộ clip quá trời kìa bạn. Bạn nói nó sống sao cho đàng hoàng vào, đáng lẽ nó không bị thế này đâu”, tài khoản Facebook có tên “Ti Key” của anh Phạm Thế K với lời nhắn: “L có quan hệ tình dục với bạn trai, có quan hệ quay clip. Vẻ bên ngoài như vậy thôi. Muốn biết nhiều về L thì gửi cho xem” và tài khoản Facebook có tên “Võ Tấn N” của anh Võ Tấn N với lời nhắn: “Bạn biết trước khi quen bạn, L nó ăn nằm dầm dề banh chành với trai không. Chắc bạn đang tin nó lắm. Mình có clip của nó với trai bị lộ, bạn có muốn xem thì mình gửi, chúc bạn may mắn” (là những người bạn học cùng trường với chị L) nhằm mục đích làm cho chị L xấu hổ với gia đình, bạn bè và không yêu ai được nữa. Đến chiều ngày 14/3/2019, chị M, anh Ph, anh N và anh K nói cho chị L biết việc những người này nhận được video trên. Sau khi gửi video cho những người trên, H sợ bị phát hiện nên đã xóa bỏ video. Anh N và anh K sau khi xem xong video đã xóa bỏ tin nhắn và video khỏi tài khoản của mình còn chị L, chị M và anh Ph giữ lại tin nhắn và video để tố cáo hành vi của Nguyễn Đức H.
Do xấu hổ nên chị L không dám đến lớp học, không dám gặp mọi người và phải nghỉ học một thời gian. Cảm thấy nhục nhã với mọi người nên ngày 19/3/2019, chị Nguyễn Thị Hoàng L làm đơn gửi Công an huyện Đ tố cáo hành vi của Nguyễn Đức H.
Quá trình điều tra, bị cáo và những người tham gia tố tụng trong vụ án khai nhận như Cáo trạng mô tả.
Về vật chứng thu giữ:
- 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S6, của Nguyễn Đức H.
- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus, của chị Nguyễn Thị Hoàng L
- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus, của anh Nguyễn Nhật Ph.
- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus, của chị Phạm Thị Kiều M.
Về dân sự: bị cáo Nguyễn Đức H phải bồi thường cho chị Nguyễn Thị Hoàng L số tiền 14.900.000đ (Mười bốn triệu chín trăm ngàn đồng), là khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần mà chị Nguyễn Thị Hoàng L phải gánh chịu.
Tại Bản án sơ thẩm số 78/2019/HS-ST ngày 25/9/2019 của Toà án nhân dân huyện Định Quán đã áp dụng điểm a, e khoản 2 Điều 155; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Xử phạt: bị cáo Nguyễn Đức H 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo và dân sự theo luật định.
Ngày 08/10/2019, bị cáo Nguyễn Đức H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo.
Ngày 11/10/2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện Định Quán có Quyết định kháng nghị số 261/QĐKN-VKSĐQ ngày 09/10/2019 đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm theo hướng giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Đức H.
Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai: Toà án cấp sơ thẩm xác định bị cáo phạm tội “Làm nhục người khác” đồng thời áp dụng điểm a, e khoản 2 Điều 155; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); xư phat bị cáo 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù là phù hợp với tính chất và hành vi phạm tội của cáo, không nặng như kháng cáo của bi cáo đã nêu nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Bị cáo kháng cáo xin hưởng án treo nhưng không cung cấp được tình tiết nào mới nên không thể xem xét cho bị cáo theo yêu cầu.
Đối với quyết định số 57/2010/ QĐ-VKSĐQ ngày 21/02/2020 của Viện kiểm sat nhân dân huyện Định Quán ban hành rút toàn bộ đối với quyết định kháng nghị số 261/QĐKN-VKSĐQ ngày 09/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện định quán là đúng quy định. Đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử đối với quyết định kháng nghị số 261/QĐKN-VKSĐQ ngày 09/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện định quán.
Luật sư bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho bị hại tại phiên tòa đồng ý với việc rút kháng nghị của viện Kiểm sát nhân dân huyện định quán, Đối với quyết định số 66/QĐ-UBND xã L, huyện Đ, tỉnh Đ về việc công nhận công dân hoàn thành nghĩa vụ tham gia dân quân tự vệ là không đúng, vì bản thân bị cáo tham gia chưa hoàn thành nghĩa vụ thì xin về. Việc Ủy ban nhân dân xã L ra quyết định trên là trái quy định của pháp luật, do đó không có cơ sở để cho rằng bị cáo hoàn thành nghĩa vụ tham gia dân quân tự vệ như bị cáo trình bày.
Hành vi của bị cáo nhằm xúc phạm nghiêm trọng đến nhân phẩm của người bị hại đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đức H làm trong hạn luật định nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
Đối với kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Định Quán:
Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai cung cấp cho Hội đồng xét xử quyết định số 57/2020/ QĐ-VKSĐQ ngày 21/02/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Định Quán với nội dung: Rút toàn bộ quyết định kháng nghị số 261/QĐKN-VKSĐQ ngày 09/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Định Quán về phần hình phạt đối với bản án hình sự sơ thẩm số 78/2019/HS-ST ngày 25/9/2019 của Toà án nhân dân huyện Định Quán, việc rút quyết định kháng Nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Định Quán đúng quy định của pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự đình chỉ xét xử đối với Quyết định kháng nghị số 261/QĐKN-VKSĐQ ngày 09/10/2019 của Viện kiểm sát Định Quán.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo:
Vào ngày 11/3/2019 và ngày 14/3/2019 tại ấp Ph, xã L, huyện Đ, tỉnh Đ, Nguyễn Đức H đã 05 lần sử dụng phương tiện điện tử là mạng xã hội Facebook để thực hiện hành vi gửi đoạn video quay lại cảnh H và chị L quan hệ tình dục vào ngày 10/8/2018 tại nH nghỉ An Bình cùng lời nhắn cho chị Nguyễn Thị Hoàng L, anh Nguyễn Nhật Ph, chị Phạm Thị Kiều M, anh Phạm Thế K, anh Võ Tấn N nhằm xúc phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của chị Nguyễn Thị Hoàng L.
Toà án cấp sơ thẩm xử đã căn cứ vào điểm a, e khoản 2 Điều 155; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Nguyễn Đức H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Làm nhục người khác” là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, đồng thời Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã xem xét hết các tình tiết giảm nhẹ như thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu, có cha mẹ là người có công với cách mạng, hoàn cảnh gia đình khó khăn. Mức án mà cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là phù hợp tương xứng với tính chất mức độ hành vi của bị cáo đã gây ra, không nặng như nội dung yêu cầu kháng cáo của bị cáo đã nêu.
Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Đức H vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo, nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ mới nên Hội đồng xét xử không có cơ sở xem xét, do vậy kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận.
[3] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận, nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).
[4] Quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a Khoản 1 Điều 355; Điều 356 và khoản 1 Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
1. Đình chỉ xét xử đối với quyết định kháng nghị số số 261/QĐKN-VKSĐQ ngày 09/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Định Quán.
2. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đức H; Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 78/2019/HS-ST ngày 25/9/2019 của Tòa án nhân dân huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai.
3. Căn cứ điểm a, e khoản 2 Điều 155; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Xử phạt: bị cáo Nguyễn Đức H 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án.
4. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án 52/2020/HS-PT ngày 24/02/2020 về tội làm nhục người khác
Số hiệu: | 52/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/02/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về