Bản án 52/2020/HS-PT ngày 23/06/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU 

BẢN ÁN 52/2020/HS-PT NGÀY 23/06/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 23 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công Khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 48/2020/TLPT-HS ngày 29 tháng 4 năm 2020 đối với các bị cáo Trần Thanh T, Nguyễn Hoàng K; do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 21/2020/HS-ST ngày 19 tháng 3 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau.

- Các bị cáo có kháng cáo:

1. Họ và tên: Trần Thanh T, sinh năm 1979, tại tỉnh Cà Mau; hộ khẩu thường trú: Khóm 1, thị trấn SĐ, huyện TVT, tỉnh Cà Mau; chỗ ở: Khóm 7, thị trấn SĐ, huyện TVT, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Chạy xe ôm; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông:

Trần Nam S và bà: Nguyễn Thị S1; vợ: Nguyễn Thanh T1, con: 04 người; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ ngày 11/9/2019, tạm giam ngày 31/10/2019; thay thế biện pháp ngăn chặn cho bảo lĩnh ngày 31/10/2019; bị cáo tại ngoại vắng mặt.

2. Họ và tên: Nguyễn Hoàng K, sinh năm 1969, tại tỉnh Cà Mau; hộ khẩu thường trú: Khóm 7, thị trấn SĐ, huyện TVT, tỉnh Cà Mau; chỗ ở: Ấp Trùm Thuật A, xã KH, huyện TVT, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Mua bán; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn Q và bà: Phạm Thị T2 (chết); vợ: Huỳnh Thúy H, con: Chưa có; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 09/8/2019 bị Ủy ban nhân dân huyện Trần Văn Thời xử phạt 7.500.000 đồng về hành vi dùng nhà ở của mình chứa bạc; tạm giữ ngày 05/9/2019; thay thế biện pháp ngăn chặn cho bảo lĩnh cấm đi khỏi nơi cư trú ngày 13/9/2019; bị cáo tại ngoại có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 15 giờ 45 phút ngày 04/9/2019, Công an tỉnh Cà Mau bắt quả tang Nguyễn Hoàng K đang tổng hợp các phơi số đề tại nhà thuộc ấp Trùm Thuật A, xã Khánh Hải, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Vật chứng thu giữ: 02 tờ giấy lịch, mặt sau có ghi chữ số; 01 điện thoại hiệu di động hiệu OPPO màu đen, sim số 0916.695.115; 01 điện thoại di động màu đen hiệu C5 GOLY, sim số 0942.919.902; 01 điện thoại di động hiệu Itel màu đen, viền trắng sim số 0916.743.324; 01 cây viết mực xanh; 01 cây viết có chữ HI.Master Buttergel; 01 cây viết nhãn hiệu TL, có chữ Ball Point Pen; 01 máy tính hiệu FLEX10; tiền Việt Nam 1.000.000 đồng.

Quá trình điều tra đã chứng minh: Nguyễn Hoàng K có hành vi mua số đề (số đầu, đuôi; số lô; số đá) do Trần Thanh T bán. Hàng ngày, K sử dụng số điện thoại 0916.695.115 gọi cho T số điện thoại 0943.556.624. K nói các con số và số tiền cần mua, K và T cùng ghi âm lại. Ngoài ra, K còn ghi các con số ra tờ giấy.

Khi có kết quả xổ số, K và T đối chiếu với kết quả xổ số rồi xóa đoạn ghi âm và các phơi đề. Hàng ngày, kết quả thắng thua được T nhắn tin qua mạng xã hội Zalo cho K biết.

Cách Trần Thanh T tính tiền bán số đề và tiền thắng số đề như sau:

Số đầu đuôi, mua 1.000 đồng, người mua trả cho T 750 đồng (75%), trúng được 70.000 đồng (tỷ lệ 1/70).

Số lô đối với các đài xổ số Miền Nam, T tính 14,6 lô (theo quy định nhà nước là 18 lô); mua 1.000 đồng, người mua trả cho T 14.600 đồng (1.000 đồng x 14,6 lô = 14.600 đồng), trúng được 80.000 đồng (tỷ lệ 1/80).

Số lô đối với các đài xổ số Miền Bắc, T tính 22 lô (theo quy định nhà nước là 27 lô); mua 1.000 đồng, người mua trả cho T 22.000 đồng (1.000 đồng x 22 lô = 22.000 đồng), trúng được 80.000 đồng (tỷ lệ 1/80).

Số đá đối với các đài xổ số Miền Nam, T tính 15 lô (theo quy định nhà nước là 18 lô) và nhân đôi số tiền; mua 1.000 đồng, người mua phải trả cho T 30.000 đồng (1.000 đồng x 2 x 15 lô = 30.000 đồng), trúng được 600.000 đồng (tỷ lệ 1/600).

Số đá đối với các đài xổ số Miền Bắc, T tính 21 lô (theo quy định nhà nước là 27 lô) và nhân đôi số tiền; mua 1.000 đồng, người mua phải trả cho T 42.000 đồng (1.000 đồng x 2 x 21 lô = 42.000 đồng), trúng được 600.000 đồng (tỷ lệ 1/600).

Thực tế đài Bạc Liêu xổ 18 lô, đài Hà Nội xổ 27 lô, người mua cũng mua hết số lượng các lô này. Khi dò số, Trần Thanh T và Nguyễn Hoàng K kiểm tra trên số lượng các lô số này để xác định họ trúng hay không. Số tiền trúng được tính căn cứ trên số tiền được ghi lại qua đoạn ghi âm và các phơi đề. Do đó, mặc dù Trần Thanh T hạ số lượng lô số mà người mua cần phải trả tiền và giảm số tiền mua số xuống để thu hút người mua nhưng số tiền dùng vào việc đánh bạc (quy mô đánh bạc) phải là số tiền đã ghi âm lại, trên phơi đề và số lượng lô xổ số thực tế ở đài Bạc Liêu và đài Hà Nội. Hành vi đánh bạc của Nguyễn Hoàng K và Trần Thanh T trong ngày 03/9/2019 như sau:

Đài Bạc Liêu: Nguyễn Hoàng K dùng số điện thoại 0916.695.115 gọi cho Trần Thanh T số điện thoại 0943.556.624 mua số lô loại 02 con. K đọc cho T 18 con số lô không mua, còn lại 82 con số, K mua mỗi con 50.000 đồng. Số tiền mua bán số của Trần Thanh T và Nguyễn Hoàng K đài Bạc Liêu là: 82 con số x 50.000 đồng x 18 lô = 73.800.000 đồng. Đối chiếu với kết quả xổ số đài Bạc Liêu, Nguyễn Hoàng K trúng được 16 con số lô với số tiền là: 16 con số x 50.000 đồng x 80.000 đồng = 64.000.000 đồng. Như vậy, tổng số tiền đánh bạc của Trần Thanh T và Nguyễn Hoàng K ngày 03/9/2019 đài Bạc Liêu là 137.800.000 đồng.

Đài Hà Nội: Nguyễn Hoàng K tiếp tục gọi điện thoại cho Trần Thanh T mua 01 cặp số đá với số tiền 20.000 đồng. Số tiền mua bán số của Trần Thanh T và Nguyễn Hoàng K đài Hà Nội là: 02 x 20.000 đồng x 27 lô = 2.160.000 đồng. Đối chiếu với kết quả xổ số thì cặp số đá K mua không trúng.

Hành vi đánh bạc của Nguyễn Hoàng K và Trần Thanh T trong ngày 04/9/2019 như sau:

Đài Sóc Trăng: Nguyễn Hoàng K dùng số điện thoại 0916.695.115 gọi cho Trần Thanh T số điện thoại 0943.556.624 mua số lô loại 02 con. K đọc cho T 23 con số lô không mua, còn lại 77 con số, K mua mỗi con 50.000 đồng. Số tiền mua bán số của Trần Thanh T và Nguyễn Hoàng K đài Sóc Trăng là: 77 con số x 50.000 đồng x 18 lô = 69.300.000 đồng. Lúc Nguyễn Hoàng K bị bắt quả tang thì đài Sóc Trăng chưa có kết quả xổ số.

Ngoài ra, khoảng 12 giờ cùng ngày Trương Văn B nhờ Nguyễn Hoàng K điện thoại cho Trần Thanh T mua 02 con số lô (loại 02 con), mỗi con 30.000 đồng, với số tiền 60.000 đồng. Số tiền mua bán số của K và B với T là: 60.000 đồng x 18 lô = 1.080.000 đồng.

Kết luận giám định số 121/GĐ-2019 ngày 21/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Cà Mau kết luận: Chữ số 02 (hai) tờ giấy lịch (ký hiệu A1;A2) so với chữ số trên 02 (hai) “Tờ tự ghi” cùng ngày 08/9/2019, họ tên Nguyễn Hoàng K (ký hiệu M1;M2) là do cùng một người viết ra.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 21/2020/HS-ST ngày 19 tháng 3 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau quyết định:

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Bị cáo Trần Thanh T 03 (ba) năm tù về tội “Đánh bạc"; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án; được trừ thời gian tạm giữ, giam giam từ ngày 11/9/2019 đến ngày 31/10/2019.

Bị cáo Nguyễn Hoàng K 03 (ba) năm tù về tội “Đánh bạc"; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án; được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 05/9/2019 đến ngày 13/9/2019.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên buộc các bị cáo nộp số tiền đánh bạc tịch thu sung quỹ nhà nước, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 23 tháng 3 năm 2020, bị cáo Nguyễn Hoàng K có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo. Lý do, hoàn cảnh gia đình khó khăn, vợ bị tai nạn giao thông đang điều trị, con còn nhỏ, phải nuôi ông ngoại 93 tuổi. Bản thân là lao động chính, có bệnh sỏi thận, nan thận, gai cột sống, nhức đầu thần kinh. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Ngày 31 tháng 3 năm 2020, bị cáo Trần Thanh T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Lý do, chưa tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu; gia đình có công với cách mạng; hoàn cảnh gia đình khó khăn, là lao động chính trong gia đình; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo T vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố Tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Trần Thanh T, Nguyễn Hoàng K; giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số: 21/2020/HS-ST ngày 19 tháng 3 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Bị cáo Trần Thanh T có kháng cáo, Tòa án đã triệu tập hợp lệ 02 lần (lần 1 ngày 04/6/2020, lần 2 ngày 23/6/2020) đối với bị cáo để xét xử phúc thẩm nhưng bị cáo đều có đơn xin hoãn phiên tòa, lý do bị bệnh. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 351 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định xử vắng mặt đối với bị cáo T.

[2] Về nội dung: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Hoàng K thừa nhận hành vi phạm tội như án sơ thẩm đã xử. Cụ thể:

Ngày 03/9/2019, Nguyễn Hoàng K thực hiện hành vi gọi điện thoại mua số đề do Trần Thanh T bán 82 con số lô 02 con đài Bạc Liêu, mỗi số mua 50.000 đồng bằng tiền là 73.800.000 đồng. Kết quả xổ số bị cáo K trúng 16 con số lô được 64.000.000 đồng. Như vậy, tổng số tiền đánh bạc của K và T (cả mua số và trúng số) là 137.800.000 đồng. Cùng ngày K còn mua 01 cặp số đá đài Hà Nội số tiền 20.000 đồng do T bán nên số tiền đánh bạc của K và T là 2.160.000 đồng.

Ngày 04/9/2019, bị cáo Nguyễn Hoàng K tiếp tục gọi điện cho Trần Thanh T mua 77 con số lô loại 02 con đài Sóc Trăng, mỗi số mua 50.000 đồng bằng tiền là 69.300.000 đồng. Nguyễn Hoàng K mua dùm cho Trương Văn B 02 con số lô loại 02 con đài Sóc Trăng, mỗi con 30.000 đồng, bằng tiền là 1.080.000 đồng.

[3] Lời khai của bị cáo Nguyễn Hoàng K phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ, do đó án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời xét xử các bị cáo Trần Thanh T, Nguyễn Hoàng K phạm tội “Đánh bạc” theo điểm b khoản 2 Điều 321 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

[4] Tuy nhiên, cấp sơ thẩm xác định tổng số tiền đánh bạc của các bị cáo trong hai ngày 03 và 04 tháng 9 năm 2019 là 207.100.000 đồng gồm tiền mua bán số đài Bạc Liêu và đài Sóc Trăng (137.800.000 đồng + 69.300.000 đồng), không tính số tiền bán số đài Hà Nội và đài Sóc Trăng (do K mua cho Bắc) số tiền 3.240.000 đồng (2.160.000 đồng + 1.080.000 đồng) do xác định các lần mua số này chưa đủ cấu thành tội phạm 5.000.000 đồng là đúng với bị cáo T nhưng chưa chính xác đối với bị cáo K. Bởi vì bị cáo K là người có tiền sự nên trong trường hợp này, các lần mua số của K tuy dưới 5.000.000 đồng nhưng vẫn bị xem là phạm tội đánh bạc. Xét sai sót của cấp sơ thẩm là không lớn, có lợi cho bị cáo, không ảnh hưởng đến tội danh, khung hình phạt áp dụng đối với bị cáo K nên chỉ cần rút kinh nghiệm đối với cấp sơ thẩm, không cần thiết phải hủy án sơ thẩm.

[5] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Trần Thanh T và xin được hưởng án treo của bị cáo Nguyễn Hoàng K, nhận thấy: Các bị cáo nhận thức biết rõ đánh bạc dưới hình thức mua lô, đề ăn thua bằng tiền với số tiền lớn là vi phạm pháp luật, phạm tội hình sự, nhưng vẫn cố ý thực hiện vì mục đích hám lợi. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến trật tự công cộng, ảnh hưởng đến tình hình trật tự, trị an của địa phương nên phải bị xử lý hình sự và chịu hình phạt của pháp luật. Án sơ thẩm căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội của từng bị cáo, số lần tham gia đánh bạc trong hai ngày, số tiền đánh bạc có giá trị lớn 207.100.000 đồng; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ các bị cáo được hưởng như: Phạm tội nhiều lần; có thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình có người thân có công với cách mạng. Từ đó, án sơ thẩm áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo Trần Thanh T 03 năm tù; bị cáo Nguyễn Hoàng K 03 năm tù là tương xứng. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có tình tiết giảm nhẹ nào mới; bị cáo K xin hưởng án treo nhưng có 01 tiền sự không đủ điều kiện để hưởng án treo. Vì vậy, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm đã xử đối với các bị cáo để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và phòng ngừa chung cho xã hội.

[6] Do kháng cáo không được chấp nhận nên các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

[7] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Trần Thanh T, Nguyễn Hoàng K; giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số: 21/2020/HS-ST ngày 19 tháng 3 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau về hình phạt.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Trần Thanh T 03 (ba) năm tù về tội “Đánh bạc"; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án; được trừ thời gian tạm giữ, giam giam từ ngày 11/9/2019 đến ngày 31/10/2019. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hoàng K 03 (ba) năm tù về tội “Đánh bạc"; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án; được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 05/9/2019 đến ngày 13/9/2019.

2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự: Án phí hình sự phúc thẩm các bị cáo Trần Thanh T, Nguyễn Hoàng K, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

309
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 52/2020/HS-PT ngày 23/06/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:52/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về