Bản án 52/2020/HNGĐ-ST ngày 31/07/2020 về ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT - TỈNH BÌNH THUẬN

 BẢN ÁN 52/2020/HNGĐ-ST NGÀY 31/07/2020 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 31 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 213/2020/TLST-HNGĐ ngày 20/5/2020 về việc “Ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 259/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 29/6/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 286/2020/QĐST-HNGĐ ngày 15/7/2020 giữa:

Nguyên đơn : Bà Nguyễn Thị T– sinh năm 1998 (Có mặt).

Nơi cư trú: Khu phố 12, phường M, thành phố P, tỉnh Bình Thuận.

Bị đơn: Ông Trương Văn B – sinh năm 1992 (Vắng mặt).

Nơi cư trú: Khu phố 12, phường M, thành phố P, tỉnh Bình Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại nội dung đơn kiện, bản khai nguyên đơn trình bày:

Bà Nguyễn Thị T và ông Trương Văn B tự nguyện tìm hiểu chung sống vào năm 2014, đến ngày 19/9/2016 ông bà đăng ký kết hôn tại UBND phường M, thành phố P.

Trong quá trình chung sống: thời gian đầu vợ chồng sống bình thường hạnh phúc, cuộc sống hòa thuận, bà T làm nhân viên khách sạn, ông B làm biển ở phường M kinh tế đủ sống. Thời gian sau này thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do ông B thường xuyên hút chích, tụ tập bạn bè đi qua đêm, bà T nhiều lần khuyên can nhưng ông B không thay đổi mà con đánh bà T. Từ đó cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc nên bà T tự sống xa ông B và không quan tâm đến nhau. Nay bà T xác định tình cảm vợ chồng không còn nên làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà T được ly hôn ông Trương Văn B.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Trương Tuấn N (nam) – sinh ngày 15/9/2014. Sau khi ly hôn bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu N và không yêu cầu ông B cấp dưỡng tiền nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, bà T trình bày: vẫn giữ ý kiến trên, vợ chồng sống chung từ năm 2014 nhưng đến tháng 9/2016 mới đăng ký kết hôn, đến cuối năm 2019 thì vợ chồng xảy ra mâu thuẫn. Do vợ chồng không còn thương yêu, tin tưởng nhau, cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc nên bà T dẫn con về nhà cha mẹ ruột sinh sống, ông bà không còn quan tâm đến nhau. Hiện nay tình cảm vợ chồng không còn nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Trương Văn B. Về con chung, tài sản chung, nợ chung: vẫn giữ ý kiến trên, không thay đổi, bổ sung gì thêm.

* Tại nội dung bản khai Bị đơn trình bày:

Ông Trương Văn B và bà Nguyễn Thị T là vợ chồng chung sống vào năm 2014, có đăng ký kết hôn tại UBND phường M, thành phố P.

Trong quá trình chung sống ông B cũng có phần lỗi là không quan tâm vợ con, ông B xin hứa và cam đoan sẽ sửa sai, mong bà T tha thứ để vợ chồng về sống với nhau, còn nếu bà T cương quyết ly hôn thì ông B yêu cầu bà T đưa 100 triệu đồng sẽ đồng ý ly hôn.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Trương Tuấn N (nam) – sinh ngày 15/9/2014. Sau khi ly hôn, ông B đồng ý giao con chung cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng.

- Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông Trương Văn B nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án không thể tiến hành các thủ tục kiểm tra chứng cứ và hòa giải theo quy định.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Qua nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thông qua việc kiểm sát thụ lý, lập hồ sơ vụ án và kiểm sát trực tiếp tại phiên tòa, Viện kiểm sát có ý kiến như sau :

- Về tố tụng: từ khi thụ lý đến trước khi mở phiên tòa Thẩm phán, Thư ký chấp hành đúng trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật, xác định đúng thẩm quyền, quan hệ tranh chấp và tư cách pháp lý của những người tham gia tố tụng. Thời hạn chuẩn bị xét xử, thời hạn mở phiên tòa, thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự quy định.

Tại phiên tòa hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa tiến hành các trình tự thủ tục đúng theo quy định của pháp luật.

Đối với người tham gia tố tụng: nguyên đơn chấp hành đúng các quy định của pháp luật và chấp hành tốt nội quy phiên tòa. Bị đơn không chấp hành đúng các quy định của pháp luật và vắng mặt tại phiên tòa.

- Về nội dung: Viện kiểm sát thấy rằng tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã thể hiện hôn nhân của ông Trương Văn B và bà Nguyễn Thị T là hợp pháp, ông bà tự nguyện chung sống và đăng ký kết hôn tại UBND phường M, thành phố P vào ngày 19/9/2016. Quá trình chung sống ông bà có xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, không thể hàn gắn được với nhau nên đã tự quyết định sống xa nhau và tại bản khai ông B cũng trình bày nếu bà T cương quyết ly hôn thì ông B cũng đồng ý. Như vậy, chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã quá trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53, Điều 56 Luật HNGĐ đề nghị HĐXX xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: bà T được ly hôn ông B.

Về con chung: Ông B, bà T có 01 con chung tên Trương Tuấn N và hiện đang do bà T trực tiếp nuôi dưỡng, do đó căn cứ vào Điều 58, Điều 81, 82, 83 Luật HNGĐ đề nghị HĐXX xử tiếp tục giao con chung cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng. Về tiền cấp dưỡng nuôi con chung: do bà T không yêu cầu ông B cấp dưỡng tiền nuôi con nên VKS không có ý kiến.

Về tài sản chung, nợ chung: do bà T khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Viện kiểm sát không có ý kiến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, nghe ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát thành phố Phan Thiết, hội đồng xét xử nhận định :

* Về tố tụng dân sự: Bà Nguyễn Thị T có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn, nuôi con chung. Bị đơn là ông Trương Văn B hiện cư trú tại phường M, thành phố P, theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

Tòa án đã triệu tập hợp lệ, nhưng ông Trương Văn B vẫn vắng mặt không có lý do nên căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

* Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân của ông Trương Văn B và bà Nguyễn Thị T là hợp pháp. Ông, bà tự nguyện đi đến hôn nhân, chung sống vào năm 2014, đến ngày 19/9/2016 ông bà đăng ký kết hôn tại UBND phường M, thành phố P. Theo bà T khai: thời gian đầu vợ chồng sống bình thường hạnh phúc và sinh được 01 con chung, được một thời gian sau đó thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do ông B thường xuyên tụ tập bạn bè chơi qua đêm, không còn quan tâm đến vợ con, mặc dù vợ chồng cố gắng hòa giải tiếp tục chung sống để nuôi dạy con chung nhưng thực tế vẫn không có kết quả, không thể tiếp tục chung sống được nữa nên vợ chồng đã tự sống xa nhau, không ai quan tâm đến ai. Nay bà Nguyễn Thị T xác định tình cảm vợ chồng không còn nên làm đơn khởi kiện xin ly hôn ông Trương Văn B.

Tại bản khai ngày 28/5/2020, ông Trương Văn B trình bày: cũng có phần lỗi là không quan tâm vợ con, ông B xin hứa và cam đoan sẽ sửa sai, mong bà T tha thứ để vợ chồng về sống với nhau, còn nếu bà T cương quyết ly hôn thì ông B yêu cầu bà T đưa 100 triệu đồng sẽ đồng ý ly hôn.

Xét yêu cầu của bà T HĐXX thấy rằng: Sau khi ông B viết bản khai, Tòa án đã tiến hành thông báo và giao các văn bản tố tụng cho ông B đúng theo quy định của pháp luật nhưng ông B vẫn vắng mặt trong các buổi hòa giải và tại phiên tòa như vậy chứng tỏ bản thân ông B cũng không có thiện chí trong việc hòa giải với bà T về hôn nhân của mình. Hiện nay ông bà cũng đã tự sống xa nhau, không còn quan tâm đến nhau. Như vậy, chứng tỏ tình trạng hôn nhân của ông bà đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Để đảm bảo quyền lợi và nhằm ổn định cuộc sống cho các bên, HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T: Bà Nguyễn Thị T được ly hôn với ông Trương Văn B.

- Về con chung: Ông bà có 01 con chung tên Trương Tuấn N (nam) – sinh ngày 15/9/2014. Sau khi ly hôn bà T yêu cầu được nuôi con chung, xét thấy hiện nay bà T là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu N và tại bản khai ông B cũng đồng ý để con chung cho bà T nuôi. Để đảm bảo cuộc sống ổn định nên tiếp tục giao cháu N cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

- Về tiền cấp dƣỡng nuôi con: Do bà T không yêu cầu ông B cấp dưỡng tiền nuôi con nên HĐXX không xét.

- Về tài sản chung, nợ chung: Do bà T khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xét.

- Về án phí: Bà T phải chịu 300.000 đồng án phí về việc xin ly hôn.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1/ Áp dụng: khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Điều 9, Điều 51, Điều 53, Điều 54, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân gia đình;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

2/ Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị T.

- Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị T được ly hôn với ông Trương Văn B.

- Về con chung: Tiếp tục giao con chung tên Trương Tuấn N (nam) – sinh ngày 15/9/2014 cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng.

Ông B có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung sau khi ly hôn.

- Về án phí: Bà Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm. Ngày 20/5/2020 bà T đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí do Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Thiết thu theo biên lai số 0007507, nay chuyển sang án phí và sung công quỹ nhà nước.

- Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm công khai, các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, đối với bà Nguyễn Thị T kể từ ngày tuyên án (31/7/2020), đối với ông Trương Văn B kể từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết bản án nơi cư trú.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 52/2020/HNGĐ-ST ngày 31/07/2020 về ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:52/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về