Bản án 52/2020/HNGĐ-ST ngày 29/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N – TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 52/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 29 tháng 9 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện N mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 203/2020/TLST- HNGĐ ngày 05 tháng 8 năm 2020 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2020/qđXXst - HNGĐ ngày 28 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 32/2020/QĐ-HNGĐ ngày 11 tháng 9 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Bùi Thị L, sinh năm 1985 Trú tại: Thôn B, xã V, huyện N, tỉnh Ninh Bình

- Bị đơn: Anh Vũ Văn Gi, sinh năm 1986 Trú tại: Thôn B, xã V, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Các đương sự vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 04 tháng 8 năm 2020 và bản tự khai, nguyên đơn Chị Bùi Thị L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và Anh Vũ Văn Gi kết hôn với nhau và có đăng ký tại Uỷ ban nhân dân xã V, huyện N, tỉnh Ninh Bình vào ngày 11/11/2013 trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng anh chị sinh sống tại Thôn B, xã V.Tuy nhiên hai vợ chồng anh chỉ hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do không hợp nhau, khi lấy nhau cả hai còn quá trẻ chưa tìm hiểu kỹ. Anh chị đã ly thân từ năm 2016 cho đến nay, không ai quan tâm đến ai về mọi mặt. Nay chị xác định mâu thuẫn giữa chị và anh Gi trầm trọng, không còn tình cảm vợ chồng nên chị xin ly hôn với anh Gi để ổn định cuộc sống riêng.

Về con chung: Chị xác định chị và anh Gicó 01 con chung: Cháu Vũ Hoàng Kh, sinh ngày 20/8/2014, hiện cháu đang ở với chị. Nếu ly hôn chị xin tiếp nuôi cháu không yêu cầu anh Gi cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản và công nợ chung: Chị không yêu cầu giải quyết.

Đi với Anh Vũ Văn Gi mặc dù đã biết việc Tòa án nhân dân huyện N đã thụ lý giải quyết vụ án chị Lxin ly hôn với anh, nhưng anh Givẫn không gửi văn bản trả lời thông báo thụ lý vụ án đến Tòa án và cũng không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Theo biên bản xác minh của Tòa án với Ủy ban nhân dân xã V thì hiện nay anh Givẫn có hộ khẩu và đang sinh sống tại Thôn B, xã V, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Những lần Tòa án phối hợp với Ủy ban xã V đến nhà tống đạt các thông báo của Tòa án cho anh Gi thì anh Gi không có nhà, mẹ đẻ anh Ginhận thay và cam đoan giao tận tay cho anh Gi.

Ngày 05 tháng 8 năm 2020 Tòa án nhân dân huyện N đã thụ lý vụ án về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo đơn khởi kiện của Chị Bùi Thị L. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện N đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng thủ tục pháp luật quy định.

Ti biên bản xác minh ngày 20/8/2020 của Tòa án nhân dân huyện N với UBND xã V thì ủy ban xác định chị L và anh Gi hiện đã ly thân do mâu thuẫn vợ chồng.

Tại đơn xin xử vắng mặt, nguyên đơn vẫn giữ nguyên quan điểm như đơn khởi kiện và bản tự khai.

Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên:

-Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Do bị đơn có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú tại Thôn B, xã V, huyện N, tỉnh Ninh Bình nên Toà án nhân dân huyện N thụ lý giải quyết tranh chấp là đúng thẩm quyền theo quy định tại các Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Việc thụ lý vụ án đúng quy định của pháp luật.

- Việc xác định quan hệ tranh chấp: Căn cứ đơn khởi kiện, Thẩm phán xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” là đúng quy định tại Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Về thời hạn chuẩn bị xét xử: Thẩm phán đã thực hiện đúng các quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Quyết định đưa vụ án ra xét xử đảm bảo về hình thức, nội dung.

- Thời hạn gửi hồ sơ, văn bản tố tụng cho Viện kiểm sát: Đm bảo quy định của pháp luật, việc tống đạt các văn bản tố tụng cho đương sự thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Việc giao nộp tài liệu chứng cứ: Thc hiện đúng các quy định tại Điều 96 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, các tài liệu là bản sao đều có chứng thực của cơ quan có thẩm quyền.

Đề nghị HĐXX: Căn cứ các Điều 5, 147, 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Áp dụng các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Đề nghị tuyên:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Chị Bùi Thị L.

Xử ly hôn giữa Chị Bùi Thị L và Anh Vũ Văn Gi.

2. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Giao Cháu Vũ Hoàng Kh, sinh ngày 20/8/2014 cho chị L tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc và giáo dục cháu cho đến khi cháu Kh đủ 18 tuổi. anh Gi không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị L.

3. Về án phí ly hôn: Chị Bùi Thị L phải nộp án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí ly hôn chị L đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện N.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về thủ tục tố tụng:

[1.1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Đây là quan hệ pháp luật “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2]. Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Bị đơn có hộ khẩu thường trú tại Thôn B, xã V, huyện N, tỉnh Ninh Bình nên Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình thụ lý vụ án là phù hợp với quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[1.3]. Về sự vắng mặt của các đương sự: Đối với Chị Bùi Thị L quá trình giải quyết chấp hành theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự, có đơn xin xử vắng mặt. Đối với Anh Vũ Văn Gi, mặc dù biết việc Tòa án thụ lý giải quyết vụ án chị L xin ly hôn với anh, nhưng anh Gi vẫn không gửi văn bản trả lời thông báo thụ lý vụ án đến Tòa án và cũng không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Tại phiên tòa chị L có đơn xin vắng mặt, anh Gi được tống đạt hợp lệ Quyết định xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do. Vì vậy căn cứ Điều 227, 228, 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung.

[2]. Về nội dung: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa HĐXX nhận thấy:

[2.1].Về quan hệ hôn nhân:

Quan hệ hôn nhân giữa Chị Bùi Thị L và Anh Vũ Văn Gi là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên hai bên chỉ chung sống được với nhau thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do không hợp nhau. Thực tế anh chị ly thân từ năm 2016 cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Điều đó chứng tỏ quan hệ hôn nhân giữa hai bên chỉ còn tồn tại về mặt hình thức, mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị L với anh Gi là có căn cứ, phù hợp Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.2].Về con chung: chị L và anh Gicó 01 con chung là Cháu Vũ Hoàng Kh, sinh ngày 20/8/2014, hiện cháu đang ở với chị L. Ý kiến của chị L xin tiếp tục được nuôi cháu. Hội đồng xét xử xét thấy: Hiện nay cháu Khôi mới 6 tuổi, đang sinh sống ổn định với chị L, chị L là lao động tự do có thu nhập. Do vậy, để đảm bảo sự ổn định, lợi ích mọi mặt của cháu Kh nên tiếp tục giao cháu cho chị L chăm sóc, nuôi dưỡng là có căn cứ theo Điều 81 Luật hôn nhân gia đình.

[2.3]. Về cấp dưỡng nuôi con chung: chị L không yêu cầu nên không đặt ra việc giải quyết.

[2.4]. Về tài sản chung, công nợ chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[2.5]. Về án phí ly hôn sơ thẩm: chị L phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các điều 147, 227, 228, 238, 266, 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Áp dụng các điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

- Áp dụng Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH-14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí Toà án.

1. Chấp nhận yêu khởi kiện của Chị Bùi Thị L. Xử ly hôn giữa Chị Bùi Thị L và Anh Vũ Văn Gi.

2. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung:

Giao Cháu Vũ Hoàng Kh, sinh ngày 20/8/2014, hiện cháu đang ở với chị L cho chị L tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến cháu đủ 18 tuổi hoặc khi có thay đổi khác. anh Gi không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị L.

3. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Bùi Thị L phải nộp toàn bộ án phí ly hôn theo quy định của pháp luật là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị L đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí ly hôn số AA/2018/0000599 ngày 05/8/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện N.

4. Quyền kháng cáo: chị L và anh Gi được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 52/2020/HNGĐ-ST ngày 29/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:52/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về