Bản án 52/2020/HNGĐ-ST ngày 29/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH LƯU, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 52/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 191/2020/TLST-HNGĐ ngày 26/6/2020 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định hoãn phiên tòa số 48/2020/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 8 năm 2020 và Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 130/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 9 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Đặng Ngọc L, sinh năm 1986. Có mặt.

2. Bị đơn: Chị Tô Thị H, sinh năm 1985. Vắng mặt.

Cùng nơi cư trú: Thôn Hồng Phú, xã QH, huyện QL, tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 22 tháng 6 năm 2020 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn anh Đặng Ngọc L trình bày: Anh và chị Tô Thị H lấy nhau có tìm hiểu, tự nguyện và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã QH vào ngày 08/3/2013. Thời gian đầu cuộc sống vợ chồng hạnh phúc nhưng mấy năm gần đây bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do quan điểm, cách nhìn nhận cuộc sống không hợp, không hiểu ý nhau, chị H có tính bảo thủ, không nghe lời ai, khinh thường chồng, nên thường xuyên cải vã. Anh đã từng làm đơn nộp Tòa án yêu cầu giải quyết ly hôn, rút đơn để hàn gắn tình cảm nhưng vẫn không khắc phục được mâu thuẫn. Mặc dù, cả hai đã cố gắng, gia đình khuyên nhủ nhưng vợ chồng không thể kiềm chế được bức xúc khi sống chung. Anh thấy tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị H. Vợ chồng anh có 02 (hai) con chung Đặng Ngọc Ph, sinh ngày 01/8/2013 và Đặng Thị Ng, sinh ngày 09/8/2014. Anh có nghề nghiệp làm công nhân, thu nhập 6.500.000đ (sáu triệu, năm trăm ngàn đồng)/tháng, có đủ điều kiện để đảm bảo nuôi con. Anh có nguyện vọng được nuôi dưỡng cả 02 (hai) con chung. Trường hợp, chị H cũng có nguyện vọng nuôi con, thì giải quyết mỗi người một con, anh có nguyện vọng được nuôi dưỡng Đặng Ngọc Ph, còn Đặng Thị Ng giao cho chị H, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn chị Tô Thị H trình bày: thống nhất với anh Đặng Ngọc L về thời gian và điều kiện đăng ký kết hôn. Chị kết hôn với anh L có tìm hiểu, tự nguyện, không bị ai ép buộc. Sau khi kết hôn, vợ chồng chị chung sống hạnh phúc, chỉ thỉnh thoảng cải vã do anh L ghen tuông và đánh đập chị. Khi vợ chồng cãi nhau, anh L đánh chị, chị có nói với bố mẹ đẻ và chị gái. Gia đình kêu về nhà nên ngày 29/4/2020 (âm lịch) chị dọn quần áo về bên ngoại sinh sống một thời gian. Chị không có biện pháp để khắc phục mâu thuẫn, hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng chị thấy tình cảm vợ chồng đang còn, mâu thuẫn không đáng kể, anh L yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn, chị đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng đoàn tụ. Vợ chồng chị có 02 (hai) con chung tên, tuổi như anh L trình bày. Chị đi làm phụ hồ có thu nhập có thể đảm bảo cho việc nuôi dưỡng con nên trường hợp tòa án giải quyết ly hôn, chị có nguyện vọng được nuôi dưỡng cả hai con chung, yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con 2.000.000đ (hai triệu đồng)/tháng/2 (hai) con. Tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của cháu Đặng Ngọc Ph: Cháu có nguyện vọng được ở với bố.

Kết quả xác minh tại Ủy ban nhân dân xã QH thể hiện: Anh L, chị H có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã QH. Nguyên nhân vợ chồng mâu thuẫn chính quyền địa phương không nắm được. Đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng đoàn tụ, trường hợp không thể đoàn tụ thì giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Lưu phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Thẩm phán thực hiện đúng, đầy đủ quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ được Bộ luật Tố tụng dân sự quy định. Bị đơn không thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do, nên Tòa án tiến hành xét xử vụ án là đúng quy định tại Khoản 2 Điều 227 và Khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147; Khoản 2 Điều 227 và Khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14. Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn.

Về quan hệ hôn nhân: Cho anh Đặng Ngọc L được ly hôn chị Tô Thị H.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung Đặng Ngọc Ph, sinh ngày 01/8/2013 và Đặng Thị Ng, sinh ngày 09/8/2014. Các bên đương sự đều có thu nhập, ly hôn nên giao con chung Đặng Ngọc Ph cho anh L, Đặng Thị Ng cho chị H, được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con. Anh L, chị H có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.

Về tài sản: Đương sự không yêu cầu nên không giải quyết.

Về án phí ly hôn sơ thẩm: Nguyên đơn phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng:

Quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình, bị đơn chị Tô Thị H cư trú tại xã QH, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

Về việc xét xử vắng mặt: Bị đơn chị Tô Thị H đã được tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét, Quyết định hoãn phiên tòa. Tại phiên tòa lần hai, chị H tiếp tục vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào Khoản 2 Điều 227 và Khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung:

Quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa anh L và chị H là hợp pháp (Trích lục kết hôn số 356/TLKH-BS ngày 08/3/2013). Các bên đương sự thừa nhận quá trình chung sống do bất đồng về tính cách, quan điểm, thiếu niềm tin, nên xảy ra cải vã, đánh đập, đã từng làm đơn nộp Tòa án yêu cầu giải quyết ly hôn, rồi rút đơn để hàn gắn tình cảm nhưng vẫn không có biện pháp khắc phục mâu thuẫn. Điều đó chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa anh L và chị H đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình xử cho anh L được ly hôn chị H.

Về con chung: Vợ chồng có 02 (hai) con chung Đặng Ngọc Ph, sinh ngày 01/8/2013 và Đặng Thị Ng, sinh ngày 09/8/2014. Các bên đương sự đều có nguyện vọng được nuôi dưỡng cả 02 (hai) con chung. Xét anh L, chị H đều có việc làm, có điều kiện để nuôi dưỡng con chung, nguyện vọng của các bên là chính đáng. Nhưng hoàn cảnh của anh L và chị H đều khó khăn, chị H chưa có nơi ở ổn định, nên không thể giao cả hai con chung cho một người. Vì vậy, để các bên đều được thực hiện quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung, căn cứ vào đặc thù giới tính, độ tuổi của con nhằm đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chung. Áp dụng các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân gia đình giao con chung Đặng Ngọc Ph cho anh Lạc, Đặng Thị Ng cho chị Hợi, được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Đương sự không yêu cầu nên không giải quyết.

Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228 và Khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Đặng Ngọc Lạc.

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho anh Đặng Ngọc L được ly hôn chị Tô Thị H.

2. Về con chung: Giao con chung Đặng Ngọc Ph, sinh ngày 01/8/2013 cho anh Đặng Ngọc L; Đặng Thị Ng, sinh ngày 09/8/2014 cho chị Tô Thị H; Được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh Đặng Ngọc L, chị Tô Thị H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản: Không giải quyết.

4. Về án phí: Anh Đặng Ngọc L phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) anh đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An theo biên lai thu tiền số AA/2019/0003794 ngày 25/6/2020.

5. Nguyên đơn có mặt, có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

147
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 52/2020/HNGĐ-ST ngày 29/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:52/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Lưu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về