TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 52/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON
Trong ngày 28 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 212/2019/TLST-HNGĐ ngày 14/9/2019; Về việc “ Tranh chấp ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 166/2019/QĐXX-ST ngày 01 tháng 11 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 128/2019/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 11 năm 2019, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Danh Thị Bích T, sinh năm 1990. Địa chỉ: Số 162D, ấp A2, thị trấn S, huyện KS, tỉnh ST (có mặt).
- Bị đơn: Anh Phạm Hoàng L sinh năm 1986. Địa chỉ: số 07, ấp H, xã T, huyện CT, tỉnh ST (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
*Theo đơn khởi kiện ngày 19 tháng 8 năm 2019, các chứng cứ có trong hồ sơ và tại phiên toà ngày hôm nay nguyên đơn chị Danh Thị Bích T trình bày: Chị T với anh L kết hôn với nhau trên tình thần tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, được UBND xã Phú Tâm cấp giấy chứng nhận kết hôn số 35/2015 ngày 04/3/2015. Trong quá trình chung sống, vợ chồng có một con chung tên Phạm Danh Ngọc G, sinh ngày 03/11/2015. Trong cuộc sống gia đình thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cự cãi nhau do bất đồng quan điểm, anh L thường xuyên nhậu say và dùng lời lẽ thô tục để xúc phạm chị và gia đình bên chị nên cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc. Đến cuối năm 2016 chị với anh L chính thức sống ly thân cho đến nay. Nay hôn nhân giữa chị với anh L không thể hàn gắn lại tình cảm vợ chồng để tiếp tục chung sống với nhau, vì không ai còn ai quan tâm đến ai và từ khi ly thân cho đến nay hơn 03 năm, anh L cũng không qua thăm chị và con nên chị yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết được ly hôn với anh Phạm Hoàng L theo quy định của pháp luật.
- Về con chung: Chị T yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi con chung tên Phạm Danh Ngọc G, sinh ngày 03/11/2015 sau khi ly hôn, không yêu cầu anh L có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung, nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Bị đơn anh Phạm Hoàng L được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, các thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, phiên hòa giải và giấy triệu tập tham gia phiên tòa nhưng không có ý kiến trả lời cho Tòa án biết đối với yêu cầu khởi kiện của chị Danh Thị Bích T và cũng như vắng mặt tại các phiên họp kiểm tra, giao nộp, công khai chứng cứ, phiên hòa giải và phiên tòa xét xử sơ thẩm.
* Tại phiên tòa kiểm sát viên phát biểu ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án; Nguyên đơn chấp hành nghiêm theo giấy tiệu tập của Tòa án, còn bị đơn chưa chấp hành đúng theo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án và cũng như giấy triệu tập của Tòa án. Về nội dung vụ án đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Danh Thị Bích T đối với anh Phạm Hoàng L, cho chị T được ly hôn với anh L theo quy định của pháp luật, còn con chung cháu Phạm Danh Ngọc G giao cho chị T được quyền tiếp tục nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành sau khi ly hôn, không đặt ra xem xét đối với việc cấp dưỡng nuôi con do chị T không yêu cầu. Về tài sản chung, nợ chung không có, đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, ý kiến trình bày của đương sự. Hội đồng xét xử xét thấy:
[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay vắng mặt bị đơn anh Phạm Hoàng L. Xét thấy, anh Phạm Hoàng L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa đến lần thứ 2 mà vẫn vắng mặt không lý do. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn anh Phạm Hoàng L theo quy định.
[2] Về nội dung vụ án: Chị Danh Thị Bích T với anh Phạm Hoàng L kết hôn với nhau trên tình thần tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, được UBND xã T cấp giấy chứng nhận kết hôn số 35/2015 ngày 04/3/2015. Theo chị T trình bày, do trong cuộc sống hôn nhân giữa chị với anh L thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cự cãi nhau, anh L thường nhậu say sỉn và dùng nhiều lời lẽ xúc phạm chị và gia đình bên chị nên cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc. Đến cuối năm 2016, chị T bỏ về nhà cha mẹ ruột ở và chính thức sống ly thân với anh Lãnh cho đến nay. Nay chị T nộp đơn xin ly hôn với anh L. Từ đó các bên phát sinh tranh chấp.
[3] Về hôn nhân: Xét thấy, Chị Danh Thị Bích T với anh Phạm Hoàng L kết hôn với nhau trên tình thần tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, được UBND xã Phú Tâm cấp giấy chứng nhận kết hôn số 35/2015 – quyển số 01 ngày 04/3/2015 nên quan hệ hôn nhân giữa chị T với anh L là hợp pháp nên được pháp luật bảo vệ khi có phát sinh tranh chấp. Theo chị T trình bày, do trong cuộc sống hôn nhân giữa chị với anh L thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cự cãi nhau, anh L thường nhậu say sỉn và dùng nhiều lời lẽ xúc phạm chị và gia đình bên chị nên cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc. Đến cuối năm 2016, chị T bỏ về nhà cha mẹ ruột ở và chính thức sống ly thân với anh Lãnh cho đến nay. Trong thời gian sống thân, chị với anh L không còn quan tâm đến nhau, không hàn gắn lại được tình cảm vợ chồng và hiện nay theo chị T hai người không còn tình cảm với nhau. Xét yêu cầu xin ly hôn của chị T đối với anh L thì thấy, đến thời điểm hiện nay mâu thuẫn hôn nhân giữa chị T với anh L đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, tình trạng hôn nhân không thể kéo dài và tại phiên Tòa hôm nay chị T cương quyết xin ly hôn với anh L vì theo chị không thể hàn gắn lại tình cảm vợ chồng, từ khi ly thân cho đến nay giữa chị với anh L không còn quan tâm đến nhau và anh L cũng không đến thăm con nên Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Danh Thị Bích T đối với anh Phạm Hoàng L.
[4] Về con chung: Chị T với anh L có 01 con chung tên Phạm Danh Ngọc G, sinh ngày 03/11/2015. Xét thấy, hiện nay cháu G đang được chị T trực tiếp, chăm sóc, nuôi dưỡng và chị T có yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung sau khi ly hôn với anh Lãnh, anh Lãnh cũng không có ý kiến gì phản đối về yêu cầu được quyền nuôi con sau khi ly hôn của chị T, từ khi ly thân cho đến nay anh L cũng không quan tâm, chăm sóc con chung nên yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi con chung sau khi ly hôn của chị T là phù hợp với điều kiện thực tế và quy định của pháp luật Hôn nhân gia đình, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Về cấp dưỡng nuôi con: Do nguyên đơn không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[5] Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[6] Về án phí sơ thẩm: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 chị Danh Thị Bích T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định là 300.000 đồng.
[7] Ý kiến phát biểu của kiểm sát viên tại phiên tòa hôm nay là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 271; khoản 1,3 Điều 273 và khoản 1 Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Áp dụng: Điều 51; Điều 53; khoản 1 Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
Tuyên xử:
1/ Về hôn nhân: Chị Danh Thị Bích T được ly hôn với anh Phạm Hoàng L.
2/ Về con chung: Giao cháu Phạm Danh Ngọc G, sinh ngày 03/11/2015 cho chị Danh Thị Bích T tiếp tục nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành.
Anh Phạm Hoàng L được quyền thăm nom con chung, không ai được quyền ngăn cản.
- Về cấp dưỡng nuôi con: Do nguyên đơn không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
3/ Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
4/ Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Danh Thị Bích T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được trừ số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 000852 ngày 22/8/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng, chị T đã nộp xong.
5/ Báo cho các đương sự biết được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại vụ án theo trình tự, thủ tục phúc thẩm. Đối với bị đơn anh Phạm Hoàng L vắng mặt tại phiên tòa thời hạn kháng cáo được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.
6/ Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 52/2019/HNGĐ-ST ngày 28/11/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con
Số hiệu: | 52/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 28/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về