Bản án 52/2019/HNGĐ-ST ngày 24/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 52/2019/HNGĐ-ST NGÀY 24/09/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 24 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 175/2019/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 5 năm 2019 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con khi ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 82/2019/QĐXX-ST ngày 13 tháng 8 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 66/2019/QĐST-HNGĐ ngày 27 tháng 8 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị L - Sinh năm 1989.

Địa chỉ: Đội 5, xã H, huyện Hoằng H, tỉnh Thanh Hóa.

- Bị đơn: Anh Bùi Tá H - Sinh năm 1978.

Địa chỉ: Số nhà 14 đường Trần Thị N, phường T, TP Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

Tại phiên tòa có mặt chị L, vắng mặt anh H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, được bổ sung tại bản tự khai, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, chị Hoàng Thị Luận trình bày:

Về hôn nhân: Chị Hoàng Thị L và anh Bùi Tá H kết hôn với nhau năm 2011, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, TP Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Sau khi kết hôn, vợ chồng chị chung sống hạnh phúc được ba năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống, ngoài ra anh H còn ham chơi, không tu chí làm ăn, không quan tâm đến gia đình, anh H có sử dụng trái phép chất ma túy dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Mâu thuẫn của vợ chồng chị đã được hai bên gia đình và chính quyền địa phương hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Mâu thuẫn căng thẳng nhất vào tháng 5/2015, chị và con trai đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ tại đội 5, xã Hoằng T, huyện Hoằng H, tỉnh Thanh Hóa sinh sống, sau đó chị đã đi xuất khẩu lao động sang Nhật Bản, vợ chồng chị đã sống ly thân từ đó cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Đến tháng 4/2019, chị đã về nước và hiện nay đang sinh sống tại nhà bố mẹ đẻ, mâu thuẫn vợ chồng vẫn không được cải thiện. Nay, chị L xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được vì vậy chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H.

Về con chung: Chị Luận và anh Hùng có 01 con chung là cháu Bùi Tá H1, sinh ngày 15/9/2011. Ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi cháu H1 và yêu cầu anh H cấp dưỡng tiền nuôi con chung với chị mỗi tháng 3.000.000đ. Tuy nhiên quá trình giải quyết vụ án, tại phiên hòa giải 23/7/2019 chị và anh H đã thống nhất, ly hôn giao cháu H1 cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, chị không cấp dưỡng tiền nuôi con chung với anh H.

Về tài sản, công nợ: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại biên bản lấy lời khai của đương sự, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án anh Bùi Tá H trình bày:

Về hôn nhân: Anh thống nhất với lời khai của chị L về thời gian, điều kiện kết hôn. Sau khi kết hôn anh chị chung sống hạnh phúc tại số nhà 14 đường Trần Thị N, phường T, thành phố Thanh Hóa, giữa hai vợ chồng không có mâu thuẫn gì. Tuy nhiên khoảng tháng 5/2015, do chị L có hiểu nhầm anh có quan hệ với người phụ nữ khác nên chị L đã giận anh và bỏ về nhà bố mẹ đẻ tại đội 5, xã Hoằng T, huyện Hoằng H, tỉnh Thanh Hóa sinh sống. Anh đã gặp chị L để giải thích nhiều lần nhưng chị L vẫn không hiểu, hai bên gia đình và chính quyền địa phương cũng đã hòa giải nhiều lần để vợ chồng quay về đoàn tụ nhưng chị L vẫn không quay về chung sống cùng anh. Từ khoảng tháng 4/2016, chị L không có mặt tại địa phương, chị L đi đâu, làm gì cũng không thông báo cho anh. Vợ chồng anh đã sống ly thân từ đó cho đến nay, chị L không liên lạc, không quan tâm đến anh và gia đình. Đến tháng 4/2019, khi anh đến nhà bố mẹ chị L thì mới gặp chị L đã về nhà bố mẹ đẻ sinh sống. Trước đây anh có sử dụng trái phép chất ma túy nhưng từ năm 2015, anh đã cai nghiện thành công và từ đó cho đến nay anh không còn sử dụng ma túy nữa, anh đã tu chí làm ăn, chăm sóc cho con trai đầy đủ. Nay anh xét thấy tình cảm giữa anh và chị L vẫn còn nên chị L làm đơn khởi kiện ly hôn thì anh không đồng ý, trường hợp chị L vẫn cương quyết ly hôn thì anh đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Anh và chị L có một con chung là cháu Bùi Tá H1, sinh ngày 15/9/2011. Ly hôn anh có nguyện vọng được nuôi cháu H1 và không yêu cầu chị L cấp dưỡng tiền nuôi con chung với anh. Tại phiên hòa giải ngày 23/7/2019, chị L cũng đã đồng ý giao cháu H1 cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng và không cấp dưỡng tiền nuôi con chung với anh.

Về tài sản, công nợ chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, chị L giữ nguyên yêu cầu ly hôn; về con chung: chị đồng ý giao cháu H1 cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, chị tự nguyện cấp dưỡng tiền nuôi con chung với anh H mỗi tháng 3.000.000đ, thời gian cấp dưỡng từ tháng 10/2019 cho đến khi con thành niên; về tài sản công nợ: chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và nguyên đơn đã tuân thủ thủ đúng quy định của pháp luật. Đối với bị đơn mặc dù đã được tống đạt hợp lệ giấy triệu tập của Tòa án nhưng chỉ có mặt để trình bày lời khai và có mặt tại phiên hòa giải lần thứ hai là không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng Dân Sự. Tại phiên tòa hôm nay, anh Hùng vắng mặt không có lý do, Tòa án căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử theo thủ tục chung. Về yêu cầu khởi kiện, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân gia đình, chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị L và ghi nhận sự thỏa thuận nuôi con và cấp dưỡng của anh chị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền: Đây là tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn và bị đơn có nơi cư trú tại thành phố Thanh Hóa. Việc Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa thụ lý, giải quyết vụ án là đúng quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về tố tụng: Bị đơn là anh Bùi Tá H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa, do vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với anh Hùng.

[3] Về hôn nhân: Chị L và anh H kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng ba năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống, vợ chồng có xảy ra hiểu lầm nhau. Ngoài ra chị L còn cho rằng anh H có sử dụng trái phép chất ma túy, ham chơi, không tu chí làm ăn, không quan tâm đến gia đình. Tuy nhiên anh H trình bày anh đã cai nghiện ma túy thành công từ năm 2015, từ đó cho đến nay anh không còn sử dụng ma túy, anh đã tu chí làm ăn. Anh H cũng đã cố gắng dùng mọi biện pháp để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Mâu thuẫn của anh chị cũng đã được hai bên gia đình và chính quyền địa phương hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Từ tháng 5/2015, chị L đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, vợ chồng anh chị đã sống ly thân từ đó cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Đến tháng 4/2016, chị L đã đi xuất khẩu lao động tại Nhật Bản, nhưng vì tình cảm vợ chồng không còn nên chị không thông báo cho anh H biết, trong thời gian lao động tại Nhật Bản chị cũng không liên lạc với anh Hùng, không quan tâm đến anh H. Vợ chồng anh chị đã không còn liên lạc, quan tâm đến nhau từ tháng 4/2016. Đến tháng 4/2019, chị Luận về nước, xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị đã nộp đơn khởi kiện ly hôn đến Tòa án. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cũng đã tiến hành hòa giải và để thời gian cho anh chị hàn gắn tình cảm vợ chồng, tuy nhiên mâu thuẫn của vợ chồng anh chị vẫn không thể giải quyết được. Xác minh tại địa phương thể hiện, quá trình anh H và chị L sinh sống tại địa phương đến năm 2015 thì vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh H có sử dụng ma túy dẫn đến vợ chồng xảy ra va chạm. Từ tháng 5/2015, chị L đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống. Như vậy có thể khẳng định tình cảm vợ chồng và đời sống chung giữa chị L và anh H không còn, quan hệ hôn nhân chỉ là hình thức, mâu thuẫn đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng có quay về đoàn tụ thì cuộc sống cũng không hạnh phúc. Vì vậy cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị L là phù hợp với thực trạng diễn biến quan hệ hôn nhân giữa chị L và anh H và phù hợp với pháp luật được quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình.

[4]. Về con chung: Chị L và anh H có một con chung là cháu Bùi Tá H1, sinh ngày 15/9/2011. Hiện nay cháu đang sinh sống cùng với anh H, anh H nuôi dưỡng và đảm bảo tốt về mọi mặt cho cháu H. Tại phiên tòa chị L cũng thừa nhận hiện nay anh H đã cai nghiện thành công, có việc làm, thu nhập và chỗ ở ổn định. Cháu H1 cũng có nguyện vọng xin được ở với bố. Quá trình giải quyết vụ án, chị L và anh H đã thỏa thuận và thống nhất, ly hôn giao cháu H cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy việc thỏa thuận của anh H và chị L về người trực tiếp nuôi con là hoàn toàn tự nguyện, đảm bảo vệ quyền lợi cho con chưa thành niên và phù hợp với quy định pháp luật nên công nhận sự thỏa thuận của anh chị.

Tại phiên tòa chị L tự nguyện cấp dưỡng tiền nuôi con chung với anh H mỗi tháng 3.000.000đ, thời gian cấp dưỡng từ tháng 10/2019 cho đến khi cháu H1 thành niên. Xét thấy đây là sự tự nguyện của chị L và cũng là điều kiện để đảm bảo cho cháu H có một cuộc sống tốt hơn nên có cơ sở để ghi nhận mức cấp dưỡng nuôi con của chị L.

[5]. Về tài sản, công nợ: Chị L, anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[6]. Về án phí: Chị L phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000đ án phí cấp dưỡng định kỳ theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271, khoản 1 điều 273, khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 .

Về hôn nhân: Xử cho chị Hoàng Thị L được ly hôn anh Bùi Tá H.

Về con chung: Công nhận sự thỏa thuận của anh H và chị L, anh H và chị L có một con chung là cháu Bùi Tá H, sinh ngày 15/9/2011. Ly hôn giao cháu H cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng.

Chị L cấp dưỡng tiền nuôi con chung với anh H mỗi tháng 3.000.000đ, thời gian cấp dưỡng từ tháng 10/2019 cho đến khi cháu H1 thành niên.

Chị L có quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.

Về tài sản, công nợ: Chị L, anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Chị Hoàng Thị L phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000đ án phí cấp dưỡng định kỳ nhưng được trừ đi số tiền tạm ứng án phí 300.000đ chị L đã nộp theo biên lai số AA/2017/0006417 ngày 08/5/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Thanh Hóa, chị L còn phải nộp 300.000đ tiền án phí.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận (hoặc ngày niêm yết) bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 52/2019/HNGĐ-ST ngày 24/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:52/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về