Bản án 52/2019/HNGĐ-ST ngày 23/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N - TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 52/2019/HNGĐ-ST NGÀY 23/09/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 23 tháng 9 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện N mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 174/2019/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 7 năm 2019 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: chị Nguyễn Thị Ngọc D, sinh năm 1993

- Bị đơn: anh Bùi Ngọc Q, sinh năm 1982

Cùng trú tại: Thôn Đ, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Bình.

Hiện anh Q đang đi cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh Ninh Bình.

Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 01 tháng 7 năm 2019 và bản tự khai, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ngọc D trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Bùi Ngọc Q kết hôn với nhau trên tinh thần tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 25 tháng 4 năm 2016 tại Uỷ ban nhân dân Thị trấn N, huyện D, tỉnh Quảng Nam. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng anh chị sinh sống Thôn Đ, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Bình cùng gia đình anh Q. Hai vợ chồng chỉ sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh Q chơi bời sa đà vào tệ nạn xã hội, bản thân anh Q không đủ điều kiện để chăm lo cho gia đình. Vì vậy vợ chồng hay xay ra xung đột. Mặt khác chị D cho rằng chị sống chung với gia đình anh Q nên chị không có sự tự do. Ngày 25/7/2019 anh Q phải đi cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng theo quyết định của Tòa án nhân dân huyện N tại Cơ sở cai nghiện tỉnh Ninh Bình. Chị xác định mâu thuẫn giữa chị và anh Q trầm trọng, không còn tình cảm vợ chồng nên chị xin ly hôn với anh Q để ổn định cuộc sống riêng.

Về con chung: Chị xác định chị và anh Q có 01 con chung là cháu Bùi Ngọc B sinh ngày 31/01/2017. Hiện nay cháu đang ở với chị. Nguyện vọng của chị D xin tiếp tục nuôi cháu và không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con chung vì hiện nay anh Q đang đi cai nghiện bắt buộc nên không đủ điều kiện để nuôi cháu cũng như cấp dưỡng cho cháu.

Về tài sản và công nợ chung: Chị không yêu cầu giải quyết.

Ý kiến của bị đơn anh Bùi Ngọc Q được thể hiện tại bản tự khai ngày 16 tháng 7 năm 2019, cụ thể: Anh Q xác nhận thời điểm kết hôn và chung sống như chị D trình bày là đúng. Theo anh mâu thuẫn vợ chồng là do anh nghiện ma túy. Nay chị D xin ly hôn với anh thì anh cũng hoàn toàn nhất trí. Về con chung anh cũng xác nhận anh và chị D có 01 con chung là cháu Bùi Ngọc B sinh ngày 31/01/2017, hiện nay cháu đang ở với chị D. Anh đồng ý cho chị D tiếp tục nuôi cháu B. Về tài sản chung, công nợ chung: anh xác định không có.

Tại biên bản xác minh ngày 12 tháng 8 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện N, Uỷ ban nhân dân xã P, huyện N có quan điểm như sau: Ủy ban xác nhận thời điểm kết hôn, đăng ký kết hôn và chung sống như các đương sự trình bày là đúng. Bản thân anh Q chơi bời dẫn đến nghiện ma túy và phải đi cai nghiện bắt buộc theo quyết định của Tòa án nhân dân huyện N. Ủy ban nhân dân xã P đề nghị Tòa án căn cứ quy định giải quyết đảm B quyền lợi cho các bên đương sự và đảm B quyền lợi cho cháu Bùi Ngọc B.

Ngày 03 tháng 7 năm 2019 Tòa án nhân dân huyện N đã thụ lý vụ án về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị Ngọc D. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện N đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng thủ tục pháp luật quy định.

Tại đơn xin xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn vẫn giữ nguyên quan điểm như bản tự khai.

Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên: Về tố tụng:

*Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

*Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng:

Nguyên đơn thực hiện đúng đầy đủ các quy định tại các Điều 70, 71 BLTTDS 2015. Bị đơn không tham gia buổi tiếp cận, công khai chứng cứ ngày 13/8/2019. Tại phiên tòa, các đương sự vắng mặt có đơn xin xử vắng mặt, Tòa án vẫn tiến hành xét xử là đúng quy định tại điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung:

Đề nghị HĐXX: Áp dụng các Điều 55, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 5, 147, 227, 228, 266, 271 và khoản 1 điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 5 điều 27 và danh mục án phí, lệ phí ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Đề nghị tuyên:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Ngọc D. Xử ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Ngọc D và anh Bùi Ngọc Q.

2. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Giao cháu Bùi Ngọc B, sinh ngày 31/01/2017, hiện đang ở với chị D cho chị D tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Anh Q không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị D.

3. Về án phí ly hôn: Chị Nguyễn Thị Ngọc D phải nộp án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về thủ tục tố tụng:

[1.1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Đây là quan hệ pháp luật “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2]. Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Bị đơn có hộ khẩu thường trú tại Thôn Đ, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Bình nên Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình thụ lý vụ án là phù hợp với quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[1.3]. Về sự vắng mặt của các đương sự tại phiên tòa: Các đương sự đã được tống đạt hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử và có đơn xin xử vắng mặt, vì vậy căn cứ Điều 227 và Điều 228 Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án là đúng quy định.

[2]. Về nội dung: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa HĐXX nhận thấy:

[2.1].Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị D và anh Q là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên hai bên chỉ chung sống được với nhau được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Q chơi bời sa vào tệ nạn xã hội phải đi cai nghiện bắt buộc. Mặt khác chị D xác định trước khi đi cai nghiện thì mâu thuẫn giữa chị và anh Q đã có, chị xác định không còn tình cảm với anh Q. Điều đó chứng tỏ quan hệ hôn nhân giữa hai bên chỉ còn tồn tại về mặt hình thức, mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị D với anh Q là có căn cứ, phù hợp Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[2.2].Về con chung: Nguyện vọng của chị D xin được tiếp tục nuôi con chung là cháu Bùi Ngọc B sinh ngày 31/01/2017, hiện nay cháu đang ở với chị, Hội đồng xét xử thấy: Xét điều kiện anh Q hiện nay đang phải đi cai nghiện bắt buộc vì vậy không thể có điều kiện để nuôi dưỡng cháu. Mặt khác chị D khỏe mạnh, có thu nhập đủ điều kiện để chăm sóc và nuôi dậy cháu B. Do vậy, để đảm B lợi ích mọi mặt của cháu nên giao cháu B cho chị D tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng là có căn cứ theo khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình.

[2.3]. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị D không có yêu cầu, mặt khác anh Q đang phải đi cai nghiện bắt buộc không có điều kiện nên không đặt ra việc xem xét.

[2.4]. Về tài sản chung, công nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[2.5]. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị D phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các điều 5, 147, 227, 228, 266, 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Áp dụng các điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH-14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí Toà án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Ngọc D. Xử ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Ngọc D và anh Bùi Ngọc Q.

2. Về con chung: Giao cháu Bùi Ngọc B sinh ngày 31/01/2017, hiện cháu đang ở với chị D cho chị D tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Anh Q không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị D.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Ngọc D phải nộp là 300.000 đồng. Được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị D đã nộp 300.000đ theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2013/0000209 ngày 03/7/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện N.

4. Quyền kháng cáo: Chị D và anh Q được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 52/2019/HNGĐ-ST ngày 23/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:52/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về