Bản án 52/2019/HNGĐ-ST ngày 15/11/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 52/2019/HNGĐ-ST NGÀY 15/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 15/11/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 271/2019/TLST-HNGĐ ngày 15/8/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 55/2019/QĐXX-ST ngày 14/10/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 31/2019/TLST-HNGĐ ngày 28/10/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lường Thị S – Sinh năm 1992."có mặt".

Địa chỉ: Bản X, xã P K, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên.

2. Bị đơn: Anh Lò Văn Đ – Sinh năm 1992."vắng mặt".

Địa chỉ: Bản L Y, xã N T, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn đề ngày 12/8/2019 và trong quá trình tố tụng tại Tòa án nhân dân huyện Đ B, chị Lường Thị S (nguyên đơn) trình bày:

1. Về hôn nhân: Tôi và anh Đón lấy nhau có đăng ký kết hôn tại UBND xã Mường Phăng, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên từ ngày 06/3/2012. Trên cơ sở tự nguyện. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn, đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh Đón nghiện ma túy, thường xuyên xảy ra cãi cọ, xô sát nhau, đời sống chung không hạnh phúc, tình cảm vợ chồng bị rạn nứt, không thể hàn gắn được. Hai bên gia đình đã hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Hiện tại hai vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2019 cho đến nay, tình cảm vợ chồng không còn. Vì vậy tôi làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với anh Đón.

2. Về con chung: Chị Soan khai vợ chồng có 01 con chung là: Lò Duy Hùng, sinh ngày 04/12/2011. Chị Soan có nguyện vọng xin được nuôi con, không yêu cầu anh Đón phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Tại bản tự khai ngày 03/9/2019 của cháu Lò Duy Hùng cũng có nguyện vọng muốn được ở với mẹ.

3.Về tài sản: Tài sản riêng, tài sản chung: không có.

Đối với bị đơn Lò Văn Đ:

Sau khi Tòa án thụ lý vụ án, đã gửi thông báo thụ lý vụ án cho các đương sự, các đương sự đã nhận được thông báo của Tòa án, nhưng không có ý kiến gì. Sau đó Tòa án đã tiến hành giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật như: Thông báo cho các đương sự đến Tòa án để viết bản tự khai, cung cấp tài liệu chứng cứ, yêu cầu tại Tòa án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Những thủ tục thông báo này Tòa án đã gửi bảo đảm qua đường bưu điện hoặc niêm yết tại UBND xã nơi bị đơn đang sinh sống theo đúng quy định của pháp luật. Nhưng bị đơn Lò Văn Đ không thực hiện và cũng không có ý kiến gì.

Tại biên bản xác minh tình trạng hôn nhân tại UBND xã N T ngày 04/9/2019 đã xác định sau khi đăng ký kết hôn hai vợ chồng ở với nhau một thời gian, sau đó hai vợ chồng sống không hạnh phúc và sống ly thân, chị Soan đã cùng với con đi về nhà bố mẹ đẻ ở, không về Bản L Y từ đó cho đến nay. Còn anh Đón vẫn ở nhà một mình và là đối tượng nghiện ma túy.

Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử trong thời gian chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa cơ bản tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự.

Quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX Căn cứ các Điều 51, 53, 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Án phí: Căn cứ Điều 147/BLTTHS; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVHQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Nguyên đơn được miễn toàn bộ án phí DSST.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ pháp luật:

Căn cứ đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo của nguyên đơn chị Lường Thị S, Tòa án xác định đây là vụ án: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con.

[2].Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị Soan xin ly hôn với anh Đón, anh Đón có hộ khẩu thường trú tại xã N T, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đ B theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39/BLTTDS.

[3]. Về điều luật áp dụng: Chị Soan và anh Đón kết hôn năm 2012, đến năm 2019 thì chị Soan khởi kiện xin ly hôn, nên Tòa án sẽ áp dụng các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 để giải quyết.

[4]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Lường Thị S và anh Lò Văn Đ lấy nhau có đăng ký kết hôn. Do vậy hôn nhân giữa hai người là hợp pháp. Quá trình chung sống do anh Đón nghiện ma túy dẫn đến hai người thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, không thể chung sống với nhau và dẫn đến hai người sống ly thân năm 2019, từ đó cho đến nay hai người không đoàn tụ lần nào. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa chị Soan và anh Đón đang trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Chị Soan xác định tình cảm của mình đối với anh Đón không còn nữa, hai người không còn thể hiện sự quan tâm đến nhau. Tại phiên tòa chị Soan vẫn giữ nguyên quan điểm và đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đón. Hội đồng xét xử xét thấy, để đảm bảo quyền lợi của đương sự và để giải phóng cho chị Soan khỏi tình trạng hiện tại khi mà hôn nhân không thể đem lại hạnh phúc, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Soan và áp dụng các Điều 51, 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 xử cho ly hôn giữa chị Lường Thị S và anh Lò Văn Đ.

[5]. Về con chung: Hai vợ chồng có 01 con chung là cháu : Lò Duy Hùng, sinh ngày 04/12/2011. Tại phiên tòa chị Soan có nguyện vọng muốn được nuôi cháu Hùng.

Tại bản tự khai ngày 03/9/2019 của cháu Hùng cũng có nguyện vọng muốn ở với mẹ. Hội đồng xét xử xét thấy nguyện vọng của chị Soan và cháu Hùng là phù hợp với quy định của pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Soan và giao cháu Hùng cho chị Soan trực tiếp chăm sóc, giáo dục.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Soan không yêu cầu anh Đón cấp dưỡng nuôi con chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[6].Về tài sản:

[6.1]. Tài sản riêng, nợ phải trả, nợ lấy về: Không có.

[6.2]. Tài sản chung, diện tích ruộng, nương: Không có.

[7]. Về án phí: Căn cứ Điều 147/BLTTDS; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Chị Soan được miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.

Đối với bị đơn Lò Văn Đ không có ý kiến gì và cũng không tham gia các phiên họp, phiên hòa giải và phiên tòa do Tòa án tiến hành theo quy định của pháp luật, gây cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án và của đương sự khác. Điều này chứng tỏ bị đơn tự tước đi quyền, nghĩa vụ của mình trong thời gian giải quyết vụ án. Hơn thế nữa việc bị đơn không đến Tòa án theo giấy thông báo, triệu tập của Tòa án còn thể hiện bị đơn không tôn trọng Tòa án, không chấp hành nghiêm chỉnh quy định của pháp luật trong việc giải quyết vụ án. Tại phiên tòa hôm nay, Tòa án đã gửi quyết định hoãn phiên tòa hợp lệ cho các đương sự, nhưng bị đơn vẫn vắng mặt. HĐXX căn cứ khoản 3 Điều 228/BLTTDS, điểm b khoản 2 Điều 227/BLTTDS, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn Lò Văn Đ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 1 Điều 235, Điều 264 và Điều 267/BLTTDS (Năm 2015);

Áp dụng: Các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

1- Tuyên xử: Cho chị Lường Thị S được ly hôn với anh Lò Văn Đ.

2 - Về con chung: Chấp nhận yêu cầu của chị Soan, giao con chung là cháu Lò Duy Hùng, sinh ngày 04/12/2011 cho chị Soan trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục. Anh Đón không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên đương sự, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con chung.

3- Về Tài sản: Không xem xét, giải quyết.

4- Về án phí: Căn cứ Điều 147/BLTTDS; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án . Chị Soan được miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.

5- Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án chính hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 52/2019/HNGĐ-ST ngày 15/11/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:52/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về