TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIAO THỦY, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 52/2019/HNGĐ-ST NGÀY 09/10/2019 VỀ LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 09 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Giao Thủy xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 150/2019/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 7 năm 2019 về việc: “Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 8 năm 2019, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Y, sinh năm 1994; địa chỉ: Lê Đại H, thị trấn A, huyện B, tỉnh Đắk Lắk; “vắng mặt”.
Bị đơn: Anh Mai Văn H, sinh năm 1990; địa chỉ: Đội 5, xóm M, xã G, huyện C, tỉnh Nam Định; “vắng mặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và lời khai tại Toà án, nguyên đơn chị Y trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Mai Văn H tự nguyện tìm hiểu và kết hôn, đã được UBND xã G, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 15-10-2013. Sau ngày cưới, vợ chồng chung sống với nhau không có hạnh phúc. Nguyên nhân do vợ chồng không có cùng quan điểm sống, tính cách trái ngược nhau. Chị và anh H đã sống ly thân từ tháng 5/2018.
Nay chị xác định không còn tình cảm với anh H, vợ chồng không thể chung sống với nhau được nữa nên nguyện vọng của chị xin được ly hôn với anh H.
Về việc nuôi con: Vợ chồng có 01 con chung là Mai Chí H, sinh ngày 27-9- 2014. Khi ly hôn, chị đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật. Nếu anh H muốn nuôi con chị nhất trí để cho anh H nuôi con.
Về tài sản: Chị không đề nghị Tòa án giải quyết.
Bị đơn là anh Mai Văn H trình bày: Anh và chị Y có quan hệ hôn nhân như chị Y trình bày. Sau ngày cưới vợ chồng chung sống được 1 thời gian thì chị Y bỏ đi không quan tâm gì đến chồng con, anh cũng không biết vợ anh đi đâu, làm gì. Anh đã nhiều lần hỏi gia đình chị Y nhưng gia đình chị Y không biết được chị Y đang sống và làm việc ở đâu. Nay chị Y có đơn xin ly hôn anh, anh đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Về việc nuôi con: Vợ chồng có 01 con chung là Mai Chí H, sinh ngày 27-9-2014. Hiện nay con chung đang ở với anh và ông bà nội, chị Y bỏ đi không quan tâm gì đến con, không chăm sóc con. Nguyện vọng của anh và gia đình là muốn được nuôi cháu Hải để chăm sóc tốt hơn. Anh không yêu cầu chị Y cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản: Anh không đề nghị Tòa án giải quyết.
Kết quả thu thập chứng cứ tại xã G thấy: Các đương sự trình bày là đúng. Về việc nuôi con chung: Anh H và chị Y đều có điều kiện nuôi con chung. Hiện nay anh H đi làm nhưng thường xuyên về chăm sóc con và có sự hỗ trợ từ bố mẹ đẻ anh H.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán và những người tiến hành tố tụng đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, nguyên đơn có đơn xin đề nghị xét xử vắng mặt và bị đơn đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa nên Tòa án xét xử vắng mặt các đương sự là phù hợp. Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình: Đề nghị Hội đồng xét xử cho ly hôn giữa chị Y và anh Mai Văn H; giao cháu Mai Chí H cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, chị Y không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: Nguyên đơn chị Y, bị đơn anh Mai Văn H có đơn đề nghị xử vắng mặt nên có căn cứ và đủ điều kiện xét xử vắng mặt cả hai đương sự như quy định tại Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Y và anh Mai Văn H kết hôn hợp pháp. Cuộc sống vợ chồng giữa chị Y và anh H không có hạnh phúc, do vợ chồng có quan điểm và tính cách trái ngược nhau. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 5/2018 cho đến nay. Chị Y xin ly hôn, anh H không nhất trí nhưng không tới Tòa án tham gia hòa giải. Như vậy, quan hệ hôn nhân giữa chị Y và anh H đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, anh H không có thiện chí hòa giải nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Y đối với anh Mai Văn H, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân gia đình.
[3] Về việc nuôi con: Vợ chồng có 01 con chung là Mai Chí H, sinh ngày 27-9-2014. Căn cứ vào kết quả xác minh, nguyện vọng, điều kiện nuôi con của các đương sự; đủ cơ sở giao con chung cho anh Mai Văn H tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; chị Y có quyền nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Ghi nhận việc anh H không yêu cầu chị Y cấp dưỡng nuôi con chung.
[4] Về tài sản: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét điều chỉnh.
[5] Về án phí: Chị Y phải nộp án phí theo quy định pháp luật.
[6] Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình; xử cho ly hôn giữa chị Phạm Thị Y và anh Mai Văn H.
2. Về việc nuôi con: Căn cứ vào các điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; giao cho Anh Mai Văn H trực tiếp nuôi con chung chưa thành niên là: Mai Chí H, sinh ngày 27 tháng 9 năm 2014; ghi nhận việc anh Mai Văn H không yêu cầu chị Y cấp dưỡng nuôi con chung; chị Y có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung sau khi ly hôn mà không ai được cản trở.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 kèm theo Danh mục án phí, lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội; buộc chị Y phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu số 0000476 ngày 18/7/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giao Thủy; chị Y đã nộp đủ án phí ly hôn.
4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án 52/2019/HNGĐ-ST ngày 09/10/2019 về ly hôn, nuôi con
Số hiệu: | 52/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Giao Thủy - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 09/10/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về