Bản án 52/2019/HNGĐ-ST ngày 07/08/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 52/2019/HNGĐ-ST NGÀY 07/08/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 07 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 144/2019/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 5 năm 2019 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 7 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 33/2019/QĐST-HNGĐ ngày 19 tháng 7 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1969; Địa chỉ: Số 17/1, ấp 1, xã Q, huyện T, tỉnh L; có đơn xin vắng mặt.

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thanh H, sinh năm 1972; Địa chỉ: Số 58, đường H, khu phố 7, phường P, thành phố T, tỉnh B; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện ngày 10/4/2019 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Nguyễn Văn D trình bày:

Ông Nguyễn Văn D và bà Nguyễn Thị Thanh H tự nguyện tìm hiểu nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện T, tỉnh L vào ngày 05/8/1993, sau khi kết hôn ông D và bà H sống chung với gia đình nhà bà H tại phường P, thành phố T, tỉnh B. Ông D và bà H chung sống hạnh phúc được khoảng 10 năm đầu sau kết hôn, khoảng đầu năm 2003 bà H thường xuyên bỏ nhà đi nhiều ngày không về, từ đó vợ chồng nảy sinh mâu thuẫn gay gắt đến cuối năm 2003 ông D và bà H sống ly thân cho đến nay, ông D đưa các con về quê ở Long An và một mình ông D nuôi dưỡng hai con trưởng thành, bà H không thăm nom hay cấp dưỡng nuôi con. Nhận thấy, tình cảm của ông D dành cho bà H không còn và mục đích hôn nhân không đạt được nên ông D làm đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn với bà Hương. Về con chung: Ông D và bà H có hai con chung là cháu Nguyễn Nam A, sinh ngày 16/7/1993 và cháu Nguyễn Hương A, sinh ngày 24/02/2000, do các con đều đã trưởng thành nên không yêu cầu giải quyết về vấn đề nuôi dưỡng và cấp dưỡng. Về tài sản chung và nợ chung: Ông D khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Đối với bị đơn bà Nguyễn Thị Thanh H: Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng như Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Thông báo hoãn phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và các giấy triệu tập. Tuy nhiên, bị đơn không đến Tòa án tham gia tố tụng, không gửi văn bản trình bày ý kiến trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã tiến hành đầy đủ các thủ tục tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật Tố Tụng dân sự. Nguyên đơn đã chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng các quy định tại các Điều 70, 71, 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chưa chấp hành đúng các quy định tại các Điều 70, 72, 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đại diện Viện kiểm sát không có ý kiến và yêu cầu khắc phục gì thêm về tố tụng. Về mặt nội dung: căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nhận thấy: Mâu thuẫn giữa ông D và bà H đã trầm trọng, không thể hàn gắn làm cho mục đích của hôn nhân không đạt được nên đề nghị chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình. Về con chung, các con chung đã trưởng thành nên không xem xét. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn ông Nguyễn Văn D có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn bà Nguyễn Thị Thanh H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn theo quy định tại Điều 227, 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Ông D và bà H sống chung với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện T, tỉnh L vào ngày 05/8/1993 theo đúng quy định về đăng ký kết hôn tại Điều 8 và Điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình. Nguyên đơn ông D trình bày nguyên nhân mâu thuẫn là do sau khi kết hôn ông D và bà H sống chung với gia đình bà H tại phường P, thành phố T, tỉnh B, nhưng khoảng đầu năm 2003 bà H thường xuyên bỏ nhà đi, không chăm lo cho gia đình, từ đó vợ chồng nảy sinh mâu thuẫn gay gắt đến cuối năm 2003 ông D và bà H sống ly thân cho đến nay, ông D đưa các con về quê ở L sinh sống và một mình ông D nuôi dưỡng hai con trưởng thành, bà H không thăm nom hay cấp dưỡng nuôi con. Nhận thấy, tình cảm của ông D dành cho bà H không còn và mục đích hôn nhân không đạt được nên ông D làm đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn với bà Hương.

Trong quá trình Tòa án thụ lý, giải quyết đã nhiều lần triệu tập bà H đến làm việc nhưng bà H không đến và cũng không có bất kỳ ý kiến phản hồi nào, chứng tỏ bà H không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng. Xét tình trạng mâu thuẫn giữa ông D và bà H đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, hiện nay ông D và bà H đã sống ly thân từ năm 2003. Do vậy, việc ông D yêu cầu được ly hôn với bà H là có căn cứ và phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về con chung: Hai con chung là cháu Nguyễn Nam A, sinh ngày 16/7/1993 và cháu Nguyễn Hương A, sinh ngày 24/02/2000, do các con đều đã trưởng thành và các đương sự không có yêu cầu gì nên không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Ông D không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm là có căn cứ.

[6] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Ông D phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 147, Khoản 1 Điều 203, Khoản 1 Điều 227, 228, 238, 273 và Điều 482 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 51, 56 và Điều 57 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn D đối với bị đơn bà Nguyễn Thị Thanh H về việc “Ly hôn”.

- Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Văn D được ly hôn với bà Nguyễn Thị Thanh H.

Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật, giấy chứng nhận kết hôn số 13/1993 do Ủy ban nhân dân xã Q, huyện T, tỉnh L cấp cho ông Nguyễn Văn D và bà Nguyễn Thị Thanh H ngày 05/8/1993 không còn giá trị pháp lý.

- Về con chung: Cháu Nguyễn Nam A, sinh ngày 16/7/1993 và cháu Nguyễn Hương A, sinh ngày 24/02/2000 đã trưởng thành, đương sự không có yêu cầu nên không xem xét giải quyết về vấn đề nuôi dưỡng và cấp dưỡng.

- Về tài sản chung, nợ chung: Ông D khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Ông Nguyễn Văn D phải nộp số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), được trừ hết vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2016-0033898 ngày 09/5/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

3. Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

267
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 52/2019/HNGĐ-ST ngày 07/08/2019 về ly hôn

Số hiệu:52/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:07/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về