TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DẦU TIẾNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 52/2018/HS-ST NGÀY 26/11/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 26 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Dầu T iếng, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 46/2018/TLST- HS ngày 05 tháng 11 năm 2018 theo Quyết đ ịnh đưa vụ án ra xét xử số: 52/2018/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:
Họ và tên: Bùi Thanh L (tên gọi khác: Ốc Mít), sinh năm 1990; tại Bình Dương; nơi cư trú: Ấp B, xã C, huyện D, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Thanh U, sinh năm 1969 và bà Hoàng Thị K, sinh năm 1971; vợ Châu Bích O, sinh năm 1991 và 02 con (lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2012); tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 26/3/2007, Ủy ban nhân dân huyện D, tỉnh Bình Dương ban hành Quyết đ ịnh số 180/QĐ-UBND về việc đưa Bùi Thanh L vào cơ sở giáo dưỡng 18 tháng, Bùi Thanh L đã chấp hành xong. Bản án số 81/2013/HS-ST ngày 21/11/2013 của Tòa án nhân dân huyện Dầu T iếng, tỉnh Bình Dương tuyên phạt Bùi Thanh L 26 (hai mươi sáu) tháng tù về tộ i “cố ý gây thương tích”. Ngày 16/5/2015, Bùi Thanh L đã chấp hành xong hình phạt tù và đóng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo tại ngoại. (có mặt tại phiên tòa).
- Bị hại: Bà Phạm Thị H, sinh năm 1989; hộ khẩu thường trú: Ấp A, xã C, huyện D, tỉnh Bình Dương ; chỗ ở hiện nay: Ấp B, xã C, huyên D, tỉnh Bình Dương. (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Bà Hoàng Thị Thanh T, sinh năm 1987; hộ khẩu thường trú: Ấp B, xã C,huyện D, tỉnh Bình Dương. (có đơn xin xét xử vắng mặt).
2. Bà Hồ Lệ M, sinh năm 1968; hộ khẩu thường trú: Ấp B, xã C, huyên D,tỉnh Bình Dương. (có đơn xin xét xử vắng mặt).
3. Ông Nguyễn Văn R, sinh năm 1949; hộ khẩu thường trú: Khu phố N, thị trấn D, huyên D, tỉnh Bình Dương. (có đơn xin xét xử vắng mặt).
- Người tham gia tố tụng khác:
* Người làm chứng:
1. Bà Hoàng Thị Thanh T, sinh năm 1987; hộ khẩu thường trú: Ấp B, xã C,huyện D, tỉnh Bình Dương. (có đơn xin xét xử vắng mặt).
2. Ông Trương Bảo P, sinh năm 1994; hộ khẩu thường trú: Ấp B, xã C, huyện D, tỉnh Bình Dương. (có đơn xin xét xử vắng mặt).
3. Bà Phạm Thị Ngọc Q, sinh năm 1992; hộ khẩu thường trú: Ấp B, xã C ,huyên D, tỉnh Bình Dương. (có đơn xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ 30 phút, ngày 26/6/2018, sau khi đã uống rượu ở nhà, L đ iều khiển xe mô tô biển số: 61FD - 4021 đến khu nhà trọ (không tên) tại ấp B, xã C, huyện D, tỉnh Bình Dương do bà Phạm Thị G, sinh năm 1973; hộ khẩu thường trú: Ấp V, xã Đ, huyện D, tỉnh Bình Dương làm chủ, để rủ bạn là Trương Bảo P, sinh năm 1994; tạm trú: Ấp B, xã C, huyện D, tỉnh Bình Dương đ i tìm nấm mối. Khi đến nơi, con chó của bà Hoàng Thị Thanh T, sinh năm 1987; tạm trú: Ấp B, xã C, huyện D, tỉnh Bình Dương (Trúc trọ ở phòng số 04) thấy L nên sủa liên tục. Nghe tiếng chó sủa, Phạm Thị H, sinh năm 1989; hộ khẩu thường trú: Ấp A, xã C, huyện D, tỉnh Bình Dương (H ở phòng trọ số 03) đ i ra và hỏ i L: “Anh là ai?” nhưng L không trả lời mà nhặt 01 cục đá gần đó ném trúng đầu con chó. Vì vậy, giữa L và H xảy ra mâu thuẫn dẫn đến cãi nhau. H ngồ i tại ghế đá trước cửa phòng số 03. L từ phòng số 02 chạy đến phòng số 03 đứng đối diện H lấy 01 cái ghế bằng nhựa có tựa lưng màu trắng cầm bằng 02 tay đánh 02 cái trúng vào vùng đ ỉnh - trán trái của H làm H thương tích chảy máu và ghế nhựa bị gãy. L tiếp tục cầm ghế nhựa đ ịnh đánh H thì được Phạm Thị Ngọc Q, sinh năm 1992; tạm trú: Ấp B, xã C, huyện D, tỉnh Bình Dương (L ở phòng trọ số 05) và P chạy ra can ngăn nên H vào phòng của mình khóa cửa lại. L đứng ở ngoài cửa tiếp tục dùng lời lẽ thô tục chửi H. Khoảng 05 phút sau, không thấy L chửi nữa nên H mở cửa đi ra ngoài để nhờ người chở đi điều trị vết thương thì bị L chạy đến lấy 01 mảnh ghế nhựa bị vỡ đánh trúng 01 cái vào vai H (không bị thương tích) nên H chạy vào phòng khóa cửa lại. L bị P và Q kéo ra ngoài dãy phòng trọ. Khoảng 10 phút sau, H kêu Hoàng Thị Thanh T điều khiển xe mô tô biển số: 61V1-2429 của T chở H đi chữa trị vết thương. Thấy H đi ra, L điều khiển xe mô tô biển số: 61FD - 4021 chạy đuổi theo H để tiếp tục chửi H. Đến trường Trung học cơ sở C thì L đuổi kịp và dùng chân phải đạp vào đầu xe của T làm xe b ị nghiêng và dừng lại. H xuống xe còn T thì quay xe lại chạy về phòng trọ nhờ mọi người can ngăn. H bỏ chạy nên L xuống xe đuổi theo H. L chạy khoảng 500m thì đuổi kịp H, đứng đối diện với H, L cầm 01 chiếc dép nhựa màu vàng (loại dép tổ ong) của L đánh 01 cái trúng vào mặt H (không gây thương tích). H tiếp tục bỏ chạy thì T, P chạy ra can ngăn nên L điều khiển xe về nhà. H được T đưa đi chữa trị vết thương ở Trạm y tế xã C.
Sau khi xảy ra vụ việc, Phạm Thị H đến Công an xã C, huyện D, tỉnh BìnhDương trình báo sự việc và có đơn yêu cầu khởi tố vụ án và giám đ ịnh tỷ lệ thươngtích.
Tại giấy chứng nhận thương tích số: 38/CN ngày 27/6/2018 của Trung tâm y tế huyện D trực thuộc Sở y tế tỉnh Bình Dương xác định tình trạng thương tích lúc vào viện của Phạm Thị H: Bệnh tỉnh, glasgow, vết thương vùng đỉnh - trán (T) #5cm đã khâu cầm máu, còn đau. Đau: vùng chẫm (p), vai (T), khủy tay (T).
Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 328/2018/GĐPY ngày 31/8/2018 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Bình Dương kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại đối với Phạm Thị H là 03% (ba phần trăm).
Tại bản Cáo trạng số 44/CT-VKSDT-HS ngày 02/11/2018 của Viện kiểm sátnhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Bùi Thanh L về tội “cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a khoản 1 Đ iều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương trong phần tranh tụng vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Bùi Thanh L về tộ i “cố ý gây thương tích”, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Bùi Thanh L từ 09 (chín) tháng đến 12 (mườihai) tháng tù.
Đề nghị xử lý vật chứng:
- 01 ghế nhựa màu trắng có tựa lưng (đã hư hỏng) của Hoàng Thị Thanh T, sinh năm 1987; tạm trú: Ấp B, xã C, huyện D, tỉnh Bình Dương là chủ sở hữu. Xét thấy, bà T không yêu cầu nhận lại và không yêu cầu bị cáo L bồi thường. Đây là tang vật của vụ án và không có giá trị sử dụng nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.
- 01 chiếc dép nhựa màu vàng (loại dép tổ ong) là tang vật của vụ án không có giá trị sử dụng nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 01 xe mô tô biển số 61V1-2318 do ông Nguyễn Văn R, sinh năm 1949; hộ khẩu thường trú: Khu phố N, thị trấn D, huyện D, tỉnh Bình Dương đứng tên chủ sở hữu. Năm 2005, ông R bán lại cho bà Hồ Lệ M, sinh năm 1968; hộ khẩu thường trú: Ấp B, xã C huyện D, tỉnh Bình Dương là mẹ vợ của bị cáo L. Bà M không biết việc bị cáo L mượn xe của bà để đi thực hiện hành vi cố ý gây thương tích nên đây không phải là phương tiện thực hiện tội phạm. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Dầu T iếng không thu giữ nên không đề cập xử lý.
* Về trách nhiệm bồi thường dân sự:
Bị hại Phạm Thị H yêu cầu bị cáo L bồi thường số tiền 79.190.000 đồng (bao gồm: 6.040.000 đồng tiền viện phí, tiền thuốc; tiền bồi thường tổn thất tinh thần69.500.000 đồng; tiền bồi dưỡng sức khỏe: 3.650.000 đồng). Tuy nhiên, b ị cáo chỉ đồng ý bồi thường số tiền 30.000.000 đồng. Căn cứ Điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015 có cơ sở buộc bị cáo bồi thường cho bị hại H số tiền 30.000.000 đồng.
Tại phiên tòa, bị cáo L thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo có điều kiện cải tạo làm công dân tốt có ích cho gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ s ơ vụ án đã đượctranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Các hành vi, quyết đ ịnh tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Dầu T iếng, Đ iều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo L đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tộ i của bị cáo như sau: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 26/6/2018, tại dãy phòng trọ của bà Phạm Thị G thuộc ấp B, xã C, huyện D, tỉnh Bình Dương. Bị cáo L dùng 02 tay cầm 01 ghế nhựa (có tựa lưng, màu trắng) đánh từ trên đầu của bị hại H xuống dưới trúng02 cái vào vùng đỉnh trán trái gây thương tích với tỷ lệ 03% (ba phần trăm) và tiếp tục dùng mảnh ghế nhựa bị vỡ đánh 01 cái trúng vào vai b ị hại H nhưng không gây thương tích. Bị hại H được người dân đưa đi cấp cứu tại Trạm y tế xã C nhưng bị cáo L tiếp tục dùng xe mô tô đuổi theo và dùng 01 chiếc dép nhựa (loại dép tổ ong) đánh 02 - 03 cái vào mặt của bị hại H nhưng không gây thương tích.
Lời khai nhận của b ị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Bị cáo từng bị Ủy ban nhân huyện D, tỉnh Bình Dương ban hành Quyết đ ịnh số: 180/QĐ-UBND về việc đưa bị cáo L vào cơ sở giáo dưỡng 18 tháng về hành vi nhiều lần đánh người gây thương tích và trộm cắp tài sản và tại Bản án số: 81/2013/HS-ST ngày 21/11/2013 của Tòa án nhân dân huyện Dầu T iếng, tỉnh Bình Dương xử phạt b ị cáo L 26 (hai mươi sáu) tháng tù về tộ i “cố ý gây thương tích”. Mặc dù, bị cáo L đã chấp hành xong thế nhưng bị cáo L vẫn không tự cải tạo bản thân mình mà tiếp tục dùng ghế (loại ghế nhựa có tựa lưng và dép nhựa) đánh bị hại H gây thương tích.
Như vậy, có đủ căn cứ kết luận bản Cáo trạng số 44/CT-VKSDT-HS ngày02/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu T iếng, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Bùi Thanh L về tội “cố ý gây thương tích” theo điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Hội đồng xét xử nhận thấy: Hành vi của bị cáo L đã xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của con người được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người có trình độ,có đầy đủ năng lực để nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật thế nhưng bị cáo cố tình quyết tâm thực hiện tội phạm đến cùng thể hiện bản chấp côn đồ, xem thường pháp luật, làm ảnh hưởng rất lớn đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương nơi xảy ra vụ án. Bị cáo biết rõ tính mạng, sức khỏe của con người là vốn quý giá nhất nhưng bị cáo quyết tâm xâm phạm, gây thương tíc h cho người bị hại H. Tại bản kết luận giám định số: 328/2018/GĐPY ngày 31/8/2018 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Bình Dương kết luận, thương tích mà bị cáo L gây ra cho bị hại H là 03% (ba phần trăm). Do bị cáo L dùng ghế nhựa là loại hung khí nguy hiểm gây ra nên đã phạm vào tội “cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[4] Để đảm bảo công tác đấu tranh phòng chống tội phạm mà đặc biệt là tội phạm về tính mạng sức khỏe con người trên địa bàn huyện D, tỉnh Bình Dương nói riêng và trên phạm vi cả nước nói chung nên cần xử lý bi cao mưc hình phạt thật nghiêm khắc tương xưng vơi tinh chât , mưc đô hanh vi pham tôi của bị cáo nhằm có điều kiện giáo dục, cải tạo bị cáo thành người công dân tốt, cũng như phòng ngừa chung cho xã hội.
[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.
[6] Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hộ i đồng xét xử nhận thấy: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử b ị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hố i cải, b ị cáo đồng ý bồi thường thiệt hại cho bị hại đó là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửađổi, bổ sung năm 2017.
[7] Xét ý kiến luận tộ i của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa về tội danh, mức hình phạt và điều luật đề nghị áp dụng là phù hợp nên Hộ i đồng xét xử chấp nhận.
[8] về trách nhiệm bồi thường dân sự: Trong quá trình đ iều tra, truy tố bị hại H yêu cầu bị cáo L bồi thường số tiền 79. 190.000 đồng (bao gồm: 6.040.000 đồng tiền viện phí, tiền thuốc; tiền bồi thường tổn thất tinh thần 69.500.000 đồng; tiền bồi dưỡng sức khỏe: 3.650.000 đồng). Tuy nhiên, tại phiên tòa, bị hại H chỉ yêu cầu bị cáo L bồi thường số tiền 30.000.000 đồng. Đồng thời, bị cáo L cũng đồng ý bồi thường cho bị hại H số tiền 30.000.000 đồng nên hộ i đồng xét xử ghi nhận.
[9] Về xử lý vật chứng:
- Đối với 01 (một) ghế nhựa màu trắng đã b ị hư hỏng của bà Hoàng ThịThanh T, sinh năm 1987, tạm tú: Ấp B, xã C, huyện D, tỉnh Bình Dương là chủ sở hữu. Xét thấy, bà T không yêu cầu nhận lại và không yêu cầu b ị cáo L bồi thường. Đây là tang vật của vụ án và không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 01 (một) chiếc dép nhựa màu vàng là tang vật của vụ án và không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
[10] Án phí hình sự và dân sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Đ iều 134; điểm s khoản 1 Đ iều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Căn cứ vào các Điều 46; Đ iều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106; khoản 2 Điều 135; khoản 2 Đ iều 136; khoản 1, 4 Đ iều 331; khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.Căn cứ vào khoản 3 Điều 361; Điều 364; Đ iều 590 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Căn cứ điểm a khoản 1 Đ iều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố bị cáo Bùi Thanh L phạm tội “cố ý gây thương tích”.
Xử phạt bị cáo Bùi Thanh L 10 (mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án.
2. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Bùi Thanh L có trách nhiệm bồi thườngcho bà Phạm Thị H số tiền 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng).
Sau khi án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày bà Phạm Thị H có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo Bùi Thanh L không thanh toán số tiền trên, thì hàng tháng bị cáo Bùi Thanh L còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất quy đinh tai k hoản 2 Điêu468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
Trường hợp Bản án này được thi hành theo quy định tại Đ iều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Đ iều 30 Luật thi hành án dân sự.
3. Về vật chứng:
- Tịch thu tiêu hủy:
+ 01 (một) ghế nhựa màu trắng đã bị hư hỏng;
+ 01 (một) chiếc dép nhựa màu vàng.
(Các vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện D, tỉnh Bình Dương đang quản lý theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 13/11/2018).
4. Về án phí:
+ Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Bùi Thanh L phải nộp số tiền 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng).
+ Án phí dân sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Bùi Thanh L phải nộp số tiền 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm ngàn đồng).
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án (ngày 26/11/2018). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.
Bản án 52/2018/HS-ST ngày 26/11/2018 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 52/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Dầu Tiếng - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về