Bản án 52/2018/HNGĐ-ST ngày 07/08/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ KON TUM, TỈNH KON TUM

BẢN ÁN 52/2018/HNGĐ-ST NGÀY 07/08/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 07 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 121/2018/TLST- HNGĐ ngày 15 tháng 3 năm 2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 7 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Huỳnh Hữu P, sinh năm 1982. (Có mặt).

2. Bị đơn: Chị Huỳnh Thị Thu H, sinh năm 1983. (Vắng mặt).

Cùng địa chỉ: Tổ 3, phường Nguyễn T, thành phố Kon T, tỉnh Kon Tum.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 14/3/2018 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn anh Huỳnh Hữu P trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Huỳnh Hữu P và chị Huỳnh Thị Thu H tự nguyện kết hôn và đã được Uỷ ban nhân dân phường Nguyễn T, thành phố Kon T, tỉnh Kon Tum cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 24/4/2006. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do chị H có quan hệ tình cảm với người đàn ông khác. Anh P đã nhiều lần tha thứ và cho chị H cơ hội sửa chữa nhưng không được. Tình cảm vợ chồng ngày càng lạnh nhạt, anh chị thường xuyên xảy ra cãi nhau, bất hòa. Chị H bỏ về nhà mẹ đẻ sinh sống từ đó đến nay. Anh chị sống ly thân hơn 03 năm nay, không ai quan tâm, chăm sóc cho nhau. Anh P đã từng 02 lần gửi đơn ly hôn đến Tòa án nhưng sau đó vì thương con và mong chị H thay đổi nên anh đã rút đơn khởi kiện. Tuy nhiên, vợ chồng vẫn không thể quay về tiếp tục chung sống. Nay anh P cảm thấy không còn tình cảm với chị H nữa nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn.

Về con chung: Anh Huỳnh Hữu P và chị Huỳnh Thị Thu H có 01 con chung là Huỳnh Đ, sinh ngày 03/8/2007. Khi ly hôn, anh P có nguyện vọng nuôi con và không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con.

 Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Bị đơn chị Huỳnh Thị Thu H đã được Tòa án thông báo, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn cố tình không đến tòa án để làm việc và vắng mặt tại phiên tòa không có lý do.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, trên cơ sở tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Anh Huỳnh Hữu P và chị Huỳnh Thị Thu H tự nguyện kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Nguyễn T, thành phố Kon T, tỉnh Kon Tum vào ngày 24/4/2006 theo đúng quy định của pháp luật, không vi phạm điều kiện kết hôn. Do đó, quan hệ hôn nhân giữa anh Huỳnh Hữu P và chị Huỳnh Thị Thu H là hôn nhân hợp pháp.

[2] Xét thấy sau khi kết hôn, anh P và chị H chung sống hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Theo anh P, nguyên nhân mâu thuẫn là do “chị H có quan hệ tình cảm với người đàn ông khác”. Tuy nhiên, anh P không cung cấp được chứng cứ chứng minh cho lời khai của mình là có căn cứ và hợp pháp. Tuy nhiên, trong đời sống chung, anh chị thường xuyên xảy ra cãi nhau, bất hòa. Anh P đã từng 02 lần gửi đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn nhưng vợ chồng vẫn không giải quyết được mâu thuẫn chung.

[3] Tại phiên tòa hôm nay, anh P khẳng định không còn tình cảm, thương yêu gì với chị H nên tha thiết xin được ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa anh P và chị H đã thực sự trầm trọng, dẫn đến việc vợ chồng sống ly thân thời gian kéo dài, từ năm 2015 đến nay. Điều đó chứng tỏ cuộc sống vợ chồng thời gian qua không có hạnh phúc, không còn thương yêu, quan tâm, chăm sóc cho nhau, mạnh ai nấy sống. Như vậy, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu ly hôn của anh Huỳnh Hữu P với chị Huỳnh Thị Thu H là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.[4] Xét thấy, từ khi anh chị sống ly thân đến nay, con chung là do anh P một mình chăm sóc, nuôi dưỡng và cháu đã có cuộc sống ổn định với bố. Bên cạnh đó, cháu Huỳnh Đ là con trai và có nguyện vọng ở với bố. Do đó, giao con chung là Huỳnh Đ, sinh ngày 03/8/2007 cho anh Huỳnh Hữu P chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp.

[5] Anh P không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét. Chị H có quyền đi lại, thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

[6] Về tài sản chung và nợ chung, do không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Đối với bị đơn chị Huỳnh Thị Thu H đã được Tòa án thông báo, triệu tập hợp lệ các văn bản tố tụng của vụ án nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Như vậy, chị H đã từ bỏ quyền và nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

[8] Về án phí: Anh Huỳnh Hữu P phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Chấp nhận đơn khởi kiện về việc “ly hôn, tranh chấp nuôi con” của anh Huỳnh Hữu P, đơn đề ngày 14/3/2018.

Áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các Điều 57, 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Xử:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Huỳnh Hữu P được ly hôn chị Huỳnh Thị ThuH.

Về con chung: Giao con chung là Huỳnh Đ, sinh ngày 03/8/2007 cho anh Huỳnh Hữu P trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Anh Huỳnh Hữu P không yêu cầu chị Huỳnh Thị Thu H cấp dưỡng nuôi con chung. Chị H có quyền đi lại, thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

Về án phí: Áp dụng khoản 3 Điều 144, khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 6, 18, 19, khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Anh Huỳnh Hữu P phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0001226 ngày 14/3/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Kon Tum. Anh P đã nộp đủ án phí.

Căn cứ các Điều 271 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (07-8-2018), nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án theo trình tự phúc thẩm. Riêng bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết tại UBND xã, phường nơi cư trú./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

257
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 52/2018/HNGĐ-ST ngày 07/08/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:52/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Kon Tum - Kon Tum
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về