TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 52/2017/HSPT NGÀY 06/07/2017 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 06 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 27/2017/TLHS-PT ngày 23-3-2017 đối với bị cáo: Nguyễn Văn T, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 07/2017/HSST ngày 14/02/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đ.
Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Văn T, sinh năm 1956, tại tỉnh Hà Tây (nay là Thành phố Hà Nội), nơi ĐKHKTT: Tổ dân phố 4, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Đăk Nông; chỗ ở hiện nay: Thôn E, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đăk Nông; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn 10/10; con ông Nguyễn Văn Th và bà Nguyễn Thị L (đều đã chết); có vợ là HuỳnhThị H và 05 con; bị bắt tạm giam từ ngày 14-7-2014 đến ngày 05-5-2015, tại ngoại
- Có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo:
1. Ông Trần Trọng Hùng, Luật sư Văn phòng luật sư Công Tâm, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Đăk Lăk - Có mặt.
2. Ông Bùi Văn Lành, Luật sư Văn phòng luật sư Bùi Lành, thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh - Có mặt.
Người bị hại: Chị Đặng Thị Th, sinh năm 1976; địa chỉ: Thôn E, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đăk Nông - Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ và bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Đ nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 16 giờ ngày 10-10-2013, anh Phan Văn C và anh Nguyễn Văn M đến Trường Tiểu học C, tọa lạc tại thôn E, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đăk Nông để tập bóng chuyền thì Nguyễn Văn T (là bảo vệ) không đồng ý. Sau đó, anh C nói lại với bị cáo T là do anh Dương Anh Ch (nhà ở gần trường) nói các anh đến tập bóng chuyền tại đây. Nghe vậy, bị cáo T chửi anh Ch, khi đó anh Ch và chị Đặng Thị Th (vợ anh Ch) đang ở nhà thấy vậy nên chửi lại bị cáo T, hai bên vừa chửi vừa thách thức nhau. Lúc này, bị cáo T tiến vào cổng nhà anh Ch thì chị Th chạy tới kéo cổng lại, bị cáo T đi tới dùng tay xô đổ cánh cổng, tuy nhiên anh Ch ở gần đó kịp thời chạy tới đỡ cánh cổng nên chị Th không bị thương tích. Tiếp đó, hai bên nhặt gạch và đá ném về phía nhau, nhưng không ai bị thương tích gì, sau đó bị cáo T về nhà. Do cánh cổng bị xô đổ nên anh Ch gọi điện thoại báo cho Công an xã nhưng không gặp được ai, nên anh gọi điện thoại cho ông Nguyễn Đăng T1 là Trưởng thôn E, xã Đ để báo cáo sự việc.
Khoảng 17 giờ cùng ngày, ông T1 cùng với vợ là bà Lê Thị X đến nhà bị cáo T nói chuyện về việc mượn sân trường tập bóng chuyền. Sau đó, ông T1 đến nói với anh Ch không mượn sân trường tập bóng chuyền nữa mà chọn địa điểm khác. Ngay sau đó, bị cáo T cầm một gậy gỗ dài khoảng 1,2m đi sang nhà anh Ch, chị Nguyễn Thị Ph là con gái bị cáo T cũng chạy theo. Thấy bị cáo T cầm gậy đến, chị Th chạy tới kéo cánh cổng nhà lại, khi khoảng cách từ mép cánh cổng đến trụ cổng còn khoảng 01m thì bị cáo T tiến sát đến chị Th trong tư thế mặt đối mặt, đồng thời sử dụng hai tay cầm gậy giơ lên thì chị Th lùi vào trong. Tiếp đó, bị cáo T tiến tới giơ gậy lên đánh từ trên xuống về phía chị Th, chị Th đưa tay trái lên đỡ thì bị gậy của T đánh trúng vào trụ tay trái làm gãy tay, sau đó bị cáo T cầm gậy chạy về nhà.
Tại bản kết luận Giám định Pháp y về thương tích số: 58/16/TgT ngày 06-6- 2016 của Phân Viện Pháp y Quốc gia tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Chị Đặng Thị Th bị gãy 1/3 giữa xương trụ tay trái đã phẫu thuật can xương liền tốt thẳng trục; tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 15%; vết thương do vật tày tác động trực tiếp vào vùng sau trong 1/3 giữa dưới cẳng tay trái gây nên.
Bản án Hình sự sơ thẩm số: 07/2017/HSST ngày 14 - 02 - 2017 của Tòa án nhân huyện Đ đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Áp dụng khoản 2 Điều 104; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 46; Điều 47 của Bộ luật Hình sự, xử phạt, bị cáo Nguyễn Văn T 09 tháng21 ngày tù (bằng thời hạn đã tạm giam). Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn ra quyết định xử lý về trách nhiệm dân sự, án phí và thông báo quyền kháng cáo.Ngày 21-02-2017, chị Đặng Thị Th kháng cáo đề nghị tăng hình phạt đối với bịcáo Nguyễn Văn T.Ngày 27-02-2017, bị cáo Nguyễn Văn T kháng cáo kêu oan.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Văn T và người bị hại Đặng ThịTh giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông, sau khi phân tích các tình tiết của vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 248 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, không chấp nhận kháng cáo của người bị hại Đặng Thị Th và bị cáo Nguyễn Văn T, giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt và điều luật áp dụng.
Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày luận cứ: Lời khai của người làm chứng Nguyễn Đăng T1 tại phiên tòa là khách quan khác với những lời khai tại cơ quan điều tra không đảm bảo tính khách quan. Kết quả điều tra xác định có bốn loại hung khí, tuy nhiên không rõ hung khí nào gây ra thương tích cho người bị hại. Ngoài ra, kết quả điều tra chưa ch ứng minh được bị cáo là người gây ra thương tích cho người bị hại. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo T không phạm tội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Trước khi xảy ra sự việc xô xát (ngày 10-10-2013) giữa bị cáo và gia đình người bị hại đã có mâu thuẫn về việc tranh chấp đất đai. Tại thời điểm xảy ra xô xát (khoảng 17 giờ ngày 10-10-2013) ông Nguyễn Đăng T1 là người trực tiếp chứng kiến toàn bộ sự việc. Đồng thời, biên bản kiểm tra hiện trường ngày 10-10-2013 (bút lục 508), do ông Nguyễn Văn Đ là Công an viên của thôn E, xã Đ lập có ông Nguyễn Đăng T1, Nguyễn Văn M và Dương Anh Ch ký nhận có nội dung: “Khoảng 17 giờ 15 phút giữa ông Nguyễn Văn T và Dương Anh Ch có lời qua tiếng lại dẫn đến xô xát, đánh nhau, lúc đó có vợ chồng ông Nguyễn Đăng T1 và bà X can bà H vợ ông T và Nguyễn Thị Ph con gái ông T. Lúc đó, ông T cầm gậy chạy qua ngõ nhà ông Ch gặp bà Đặng Thị Th vợ ông Ch liền cầm cây trên tay vụt vào tay trái của bà Th, sau đó được ông Đặng Bá V chở đi cấp cứu tại Bệnh viện Đ…”. Tuy nhiên, tại phiên tòa sơ thẩm ông T1 khẳng định ông không được đọc lại nội dung biên bản do ông Đ đã lập và nghĩ chỉ là biên bản lấy lời khai gia đình anh Ch nên đã ông ký vào biên bản đó. Mặt khác, biên bản ghi lời khai của ông Nguyễn Văn Đ ngày 23-7-2015 (bút lục số 317) cơ quan điều tra cũng không đề cập đến nội dung biên bản do ông Đ lập vào hồi 18 giờ 40 phút ngày 10-10-2013. Ngoài ra, biên bản xác minh của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ xác định ông Đ không có mặt thường xuyên tại nơi cư trú do làm nghề lái xe. Song, tại phiên tòa sơ thẩm Hội đồng xét xử không trả hồ sơ yêu cầu điều tra đối với nội dung mâu thuẫn trên. Tại phiên tòa phúc thẩm ông T1 tiếp tục khai như tại phiên tòa sơ thẩm và khẳng định nội dung biên bản do ông Đ lập ngày 10-10-2013 là không đúng với diễn biến sự việc mà chỉ ghi theo lời trình bày của anh Ch. Tòa án cấp phúc thẩm đã triệu tập ông Nguyễn Văn Đ tham gia tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm nhưng không có kết quả do ông Đ vắng mặt tại địa phương.
[2]. Tại biên bản ghi lời khai của ông Nguyễn Đăng T1 ngày 16-10-2013 (bút lục 135) và tại phiên tòa phúc thẩm ông T1 xác định: Thời điểm xảy ra xô xát giữa bị cáo và người bị hại thì chỉ có mặt bị cáo T, bà H và chị Ph (là vợ, con của bị cáo), chị Th và anh Ch là những người trực tiếp chứng kiến, không có mặt bà Lê Thị H tại thời điểm đó. Tuy nhiên, tại biên bản ghi lời khai ngày05-11-2013 (bút lục số 180) bà Lê Thị H khai: “… thấy ông T cầm cây gậy khoảng 1,3m, đường kính 05cm chạy sang hướng nhà Ch Th…Lúc đó vì thấy ông T chạy vào nên Th lùi lại, ông T liền cầm cây gậy đánh thẳng từ trên xuống, Th dơ tay trái lên đỡ thì bị gậy đánh trúng tay trái…”. Ngoài ra, thời điểm chị Th kêu lên bị gẫy tay, theo quan sát của ông T1 thì không có mặt bị cáoT tại khu vực chị Th đang đứng.
[3]. Mặt khác, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo cung cấp thêm người làm chứng khác là bà X trú thôn E, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đăk Nông (hiện đang làm bảo vệ tại Trường Tiểu học C) là người biết được các nội dung liên quan đến thương tích của chị Đặng Thị Th và USB ghi âm có chứa nội dung liên quan đến vụ án, đây là tình tiết mới phát sinh cần được điều tra làm rõ.
[4]. Như vậy, do có tình tiết mới tại phiên tòa phúc thẩm liên quan đến việc việc xác định sự thật khách quan của vụ án, đồng thời việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được. Do đó, Hội đồng xét xử có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo, hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để điều tra lại theo thủ tục chung.
Do bản án sơ thẩm bị hủy để điều tra lại, nên Hội đồng xét xử không xem xét kháng cáo của người bị hại.
Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 248; khoản 1 Điều 250 của Bộ luật Tố tụng Hình sự,1. Hủy bản án sơ thẩm số: 07/2017/HSST ngày 14 tháng 02 năm 2017 của Tòa án nhân huyện Đ, tỉnh Đăk Nông để điều tra lại.
2. Chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Đăk Nông để điều tra lại theo thủ tục chung.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 52/2017/HSPT ngày 06/07/2017 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 52/2017/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/07/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về