TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 521/2020/HNGĐ-ST NGÀY 24/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON GIỮA CHỊ T VỚI ANH TH
Trong ngày 24 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện c xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 126/2020/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 02 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 124/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 6 năm 2020, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1975 (có đơn xin xét xử vắng mặt).
Địa chỉ cư trú: ấp Khánh Phát, xã K, huyện C, tỉnh An Giang.
- Bị đơn: Anh Lê Tiến Th, sinh năm 1984 (vắng mặt).
Địa chỉ cư trú: ấp Khánh Phát, xã K, huyện C, tỉnh An Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 30 tháng 5 năm 2019 và trong quá trình hòa giải, xét xử, nguyên đơn chị Nguyên Thị Thanh T trình bày:
1. Về hôn nhân: Vợ chồng anh chị tự nguyện tiến đến nhân vào năm 2009 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Núi Thượng, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng dần về sau phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, vợ chồng đã ly thân từ ngày 02/9/2018 đến nay, nay chị nhận thấy tình cảm không còn xin được ly hôn với anh Th.
2. Về con chung: Có 01 con chung tên Lê Thị Thùy Linh, sinh ngày 19/02/2010, hiện cháu Linh đang do chị trực tiếp nuôi dưỡng, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu Linh và không yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con.
3. Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
4. Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn vắng mặt toàn bộ quá trình giải quyết vụ án nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của bị đơn.
Tại phiên tòa:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện c phát biểu ý kiến:
- Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn không chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án là vi phạm Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị T được ly hôn anh Th. Giao cháu Linh cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, về cấp dưỡng nuôi con chị T không yêu cầu nên đề nghị không xem xét theo, về tài sản chung, nợ chung không yêu cầu giải quyết nên đề nghị không xem xét.
Tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án gồm: Bản sao giấy chứng nhận đăng ký kết hôn, Giấy khai sinh của cháu Linh (bản sao), đơn xin xét xử vắng mặt, bản nguyện vọng của con...
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa và các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Tranh chấp của các đương sự là về ly hôn, bị đơn có địa chỉ thường trú tại địa bàn huyện C, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện c tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[1.2] Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự là phù hợp quy định pháp luật tại Điều 227, Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Về hôn nhân: Chị T và anh Th đã tự nguyện xác lập quan hệ vợ chồng, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Núi Tượng, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai, theo Giấy chứng nhận kết hôn số: 30, ngày 07/8/2009. Do đó, hôn nhân giữa chị T và anh Th là hợp pháp, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Thời gian chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, đời sống chung không hòa hợp anh chị ly thân đã lâu. Tòa án mở phiên hòa giải nhiều lần nhằm mục đích hàn gắn quan hệ vợ chồng nhưng anh Th không tham dự, để mặc cho chị T tự giải quyết, thời gian ly thân là thời gian để anh chị tự suy ngẫm và hàn gắn quan hệ vợ chồng, nhưng anh chị không hàn gắn được, cho thấy anh chị đã không còn yêu thương nhau, không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, anh chị đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, chị T yêu cầu ly hôn với anh Th là có cơ sở, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T.
[2.2] Về con chung: Có 01 con chung tên Lê Thị Thùy Linh, sinh ngày 19/02/2010, hiện cháu Linh đang do chị trực tiếp nuôi dưỡng, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu Linh và không yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con.
Xét, từ khi ly thân đến nay chị T là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu Linh, anh Th không cùng chị T chăm lo cho cháu, cháu Linh có nguyện vọng được chung sống với chị T. Xét yêu cầu của chị T và nguyện vọng của cháu Linh, để tạo điều kiện phát triển về mọi mặt, ổn định tinh thần, sinh sống học tập cho cháu, Hội đồng xét xử chấp nhận giao cháu Linh cho chị T tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng là phù hợp quy định.
Anh Th có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị T không yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[2.4] Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[3] Về án phí: Chị T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân, gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điệu 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 235, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào các Điều 9, Điều 19, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;
Căn cứ khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thanh T được ly hôn anh Lê Tiến Th.
Giấy chứng nhận kết hôn số 30, ngày 07/8/2009 của Ủy ban nhân dân xã xã Núi Tượng, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai không còn giá trị pháp lý.
2. Về nuôi con chung: Chị T và anh Th có 01 con chung tên Lê Nguyễn Thùy Linh, sinh ngày 19/02/2010, hiện cháu Linh đang do chị T trực tiếp nuôi dưỡng. Giao cháu Linh cho chị T được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng.
Anh Th có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
3. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị T không yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.
4. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
5. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thanh T phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thư số: 0006301 ngày 24 tháng 02 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C.
6. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự vắng mặt thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án 521/2020/HNGĐ-ST ngày 24/09/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con giữa chị T với anh Th
Số hiệu: | 521/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 24/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về