Bản án 519/2018/HNGĐ-ST ngày 28/12/2018 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 519/2018/HNGĐ-ST NGÀY 28/12/2018 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 28/12/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 2166/2018/TLST-HNGĐ ngày 18/9/2018 về việc “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 475/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 23/11/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 788/2018/QĐST-HNGĐ ngày 11/12/2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Kim Ng, sinh năm 1976. 

HKTT: khu phố B, P. TB, TP. B, tỉnh Đ. Chỗ ở hiện nay: khu phố 8A, phường TB, TP. B, tỉnh Đ.

- Bị đơn: Ông Phạm Viết Kh, sinh năm 1973.

Địa chỉ: khu phố B, P. TB, TP. B, tỉnh Đ.

(Bà Ng có đơn xin vắng mặt còn ông Kh vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai của bà Phạm Thị Kim Ng thì bà và ông Phạm Viết Kh xây dựng gia đình với nhau vào năm 2003, có đăng ký kết hôn tại UBND phường TB, TP. B, tỉnh Đ trên cơ sở cả hai tự nguyện.

Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2008 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình không còn hòa hợp, bất đồng về quan điểm sống, dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra xung đột, cãi vã không còn tôn trọng tin tưởng lẫn nhau. Do mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn được nên vào năm 2017 bà đã nộp đơn khởi kiện xin được ly hôn với ông Kh nhưng vì muốn có thêm thời gian để vợ chồng hàn gắn đoàn tụ cùng nhau nuôi dạy con cái nên bà đã rút đơn khởi kiện không yêu cầu Tòa án giải quyết nữa. Tuy nhiên kể từ khi rút đơn khởi kiện cho đến nay mâu thuẫn vợ chồng vẫn không được cải thiện mà ngày càng trở nên trầm trọng, vợ chồng mạnh ai lấy sống (đã sống ly thân với nhau khoảng 10 năm nay) không ai còn quan tâm đến ai. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà xin được ly hôn với ông Kh để trả tự do cho nhau.

Về con chung: Có 02 con chung tên là Phạm Viết H, sinh ngày 21/5/2004 và Phạm Viết H, sinh ngày 08/6/2008. Ly hôn bà xin được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cả 02 con chung, tạm thời bà không yêu cầu ông Kh cấp dưỡng nuôi con chung vì từ khi vợ chồng sống ly thân với nhau cho đến nay các con do bà trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, ông Kh cũng không hề quan tâm đến mẹ con bà.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn ông Phạm Viết Kh đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các thủ tục tố tụng để đến Tòa án làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, cũng như tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm nhưng ông Kh vắng mặt không có lý do nên không có lời trình bày.

* Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án được thực hiện đúng theo quy định pháp luật.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị chấp nhận đơn xin ly hôn của bà Phạm Thị Kim Ng; Về con chung: Giao cả 02 cháu Phạm Viết H, sinh ngày 21/5/2004 và Phạm Viết H, sinh ngày 08/6/2008 cho bà Ng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, tạm thời không buộc ông Kh phải cấp dưỡng cho con chung; Về tài sản chung và nợ chung: Vì chưa lấy được lời khai của ông Kh nên không có căn cứ xác định lời khai của bà Ng là đúng, do vậy đề nghị tách phần tài sản chung và nợ chung của bà Ng và ông Kh để giải quyết bằng vụ án dân sự khác nếu sau này có yêu cầu; Về án phí: Bà Ng phải nộp án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn ông Phạm Viết Kh hiện cư trú tại địa bàn TP. Biên Hòa nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân TP Biên Hòa theo điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Mặc dù đã được Tòa án nhiều lần triệu tập hợp lệ ông Phạm Viết Kh đến Tòa án để tham gia các buổi làm việc, phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như xét xử nhưng ông Kh đều vắng mặt không lý do còn bà Phạm Thị Kim Ng có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà Ng và ông Kh theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 227 và khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà Ng và ông Kh xây dựng gia đình với nhau vào năm 2003, có đăng ký kết hôn tại UBND phường TB, TP. B, tỉnh Đ trên cơ sở cả hai tự nguyện nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp.

Trong quá trình giải quyết, tại các buổi làm việc và hòa giải, Tòa án đã tiến hành hòa giải, hàn gắn đoàn tụ nhưng bà Ng xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được và cương quyết xin ly hôn với ông Kh để trả tự do cho nhau. Nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa bà Ng và ông Kh đã xảy ra trong khoảng thời gian dài, hiện cả hai đã không còn chung sống với nhau (khoảng 05 năm nay theo biên bản xác minh tại địa phương ngày 09/10/2018 – bút lục số 36). Bản thân ông Kh cũng không có ý hòa giải, hàn gắn cuộc sống vợ chồng điều này thể hiện qua việc ông Kh đã không đến tòa trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Như vậy mâu thuẫn vợ chồng giữa bà Ng và ông Kh là có thật và đã thật sự trầm trọng, có tạo điều kiện về thời gian cho cả hai hòa giải cũng không đạt kết quả.

Do vậy, căn cứ theo qui định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Ng, giải quyết cho bà Ng được ly hôn ông Kh.

[4] Về con chung: Bà Ng và ông Kh có 02 con chung tên là Phạm Viết H, sinh ngày 21/5/2004 và Phạm Viết H, sinh ngày 08/6/2008. Ly hôn bà Ng xin được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cả 02 cháu H và cháu H đến tuổi trưởng thành và có khẳ năng lao động, tạm thời bà không yêu cầu ông Kh cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy kể từ khi bà Ng và ông Kh sống ly thân với nhau cho đến nay cả 02 cháu H và cháu H do bà Ng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng (theo biên bản xác minh tại địa phương ngày 09/10/2018 – bút lục số 36), hiện bà Ng có công việc, thu nhập ổn định, cả 02 cháu H và H đều có nguyện vọng được ở với mẹ (bút lúc số 26, 27) nên căn cứ theo qui định tại các Điều 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình, ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, giao cả 02 cháu Phạm Viết H và Phạm Viết H cho bà Ng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, tạm thời ông Kh không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Ông Kh được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con khi cần thiết các bên có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc yêu cầu cấp dưỡng.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Vì chưa lấy được lời khai của ông Kh nên không có căn cứ xác định lời khai của bà Ng là đúng. Do vậy, căn cứ theo qui định của pháp luật và ý kiến đề nghị của Viện kiểm sát, tách phần tài sản chung và nợ chung giữa bà Ng, ông Kh để giải quyết bằng vụ án dân sự khác nếu sau này có yêu cầu.

[6] Về án phí HNGĐ sơ thẩm: Bà Ng phải nộp 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm a, b khoản 2 Điều 227; khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 235, Điều 238 và Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Áp dụng các Điều 51, 54, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 và 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Phạm Thị Kim Ng.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị Kim Ng được ly hôn với ông Phạm Viết Kh.

Về con chung: Giao Phạm Viết H, sinh ngày 21/5/2004 và Phạm Viết H, sinh ngày 08/6/2008 cho bà Ng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, tạm thời ông Kh không phải cấp dưỡng con chung.

Vì không trực tiếp nuôi con nên ông Kh được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con không ai được cản trở.

Vì quyền lợi của con khi cần thiết, các bên có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con

Về tài sản chung và nợ chung: Không đặt ra xem xét, giải quyết.

Về án phí: Bà Ng phải nộp 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 009185 ngày 04/9/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự TP. Biên Hòa.

Bà Ngân, ông Kh có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo qui định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 519/2018/HNGĐ-ST ngày 28/12/2018 về xin ly hôn

Số hiệu:519/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/12/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về