Bản án 518/2020/HS-ST ngày 24/11/2020 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 518/2020/HS-ST NGÀY 24/11/2020 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Hôm nay, ngày 24 tháng 11 năm 2020, tại hội trường Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 466/2020/TLST-HS ngay 05 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 538/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Cao Hồng H (tên gọi khác: không), sinh ngày 10/3/1992, tại Nghệ An. Nơi thường trú: xóm A, xã QC, huyện QL, tỉnh NA. nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; Giới tính: Nam; Con ông: Cao Văn S, sinh năm 1956 và bà: Lê Thị L, sinh năm 1969, gia đình bị cáo có 04 anh, chị em, bị cáo là con thứ tư; Chưa có vợ con; Tiền sự: Không.

Tiền án: 01-Tại bản án hình sự số 34/2017/HSST ngày 26/7/2017 Tòa án nhân dân huyện QL, tỉnh NA xử phạt 18 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, ra trại ngày 18/6/2018, nộp án phí hình sự và dân sự ngày 20/10/2017, chưa chấp hành khoản bồi thường dân sự.

Nhân thân: 01- Tại Bản án hình sự số 138/2010/HSST ngày 30/6/2010 Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong bản án ngày 02/10/2011.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/6/2020 đến nay, hiện bị cáo bị tạm giam tại trại tạm giam công an tỉnh Thái Nguyên (có mặt tại phiên tòa).

* Người làm chứng: Chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 1987, Nơi thường trú: Tổ X, phường PĐP, TPTN, tỉnh Thái Nguyên. ( vắng mặt)

*Ngưi chứng kiến: Anh Trần Văn S, sinh năm 1994 ( vắng mặt) Nơi thường trú: Tổ X, phường QV, TPTN, tỉnh Thái Nguyên

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, quá trình xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 18/6/2020, Cao Hồng H điều khiển xe mô tô Biển kiểm soát 20B1-088.22 đi từ phòng trọ thuộc phường TT, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đến khu vực C thuộc phường QV, thành phố Thái Nguyên. Tại đây H gặp một người đàn ông không quen biết và hỏi mua 300.000 đồng ma túy đá, người này cầm tiền bảo H đợi rồi đi đâu không rõ, khoảng 10 phút sau có 01 người phụ nữ không rõ lai lịch, địa chỉ đến đưa cho H 01 gói nilon màu trắng chứa ma túy đá. Sau khi nhận gói ma túy H cất vào túi quần phía trước bên trái rồi điều khiển xe về phòng trọ để sử dụng. Khi đi cách chỗ mua ma túy khoảng 20 mét, tại địa điểm thuộc tổ X phường QV, thành phố Thái Nguyên thì bị lực lượng công an phường QV nghi vấn yêu cầu kiểm tra. Khi tổ công tác yêu cầu dừng xe để kiểm tra Cao Hồng H tự giác lấy từ túi quần phía trước bên trái đang mặc 01 gói nylon màu trắng bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng giao nộp cho tổ công tác, H khai nhận là ma túy đá. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang thu giữ vật chứng theo quy định, ngoài ra tổ công tác còn thu giữ của Hải 01 xe mô tô BKS 20B1-088.22 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu ViVo, vỏ màu xanh.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tiến hành mở bì niêm phong ký hiệu A, cân xác định khối lượng số chất tinh thể màu trắng có khối lượng 0,351 gam, niêm phong ký hiệu H gửi giám định.

Tại bản Kết luận giám định số 3960/C09-TT2 ngày 26/6/2020 của Viện Khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: Mẫu tinh thể trong phong bì ký hiệu H gửi giám định là ma túy; loại: Methamphetamine.

Tại bản Kết luận giám định số 831/KL-KTHS ngày 26/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Khối lượng chất tinh thể màu trắng thu giữ ban đầu của Cao Hồng Hlà 0,351gam.

Tại bản C áo trạng số 469/CT-VKSTPTN ngay 29 tháng 9 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo Cao Hồng H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận việc tìm mua ma túy với mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị lực lượng công an kiểm tra, bị cáo đã tự nguyện giao nộp số ma túy vừa mua, bị cáo xác định nội dung bản Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên luận tội bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Cao Hồng H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Cao Hồng H từ 24 đến 30 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Hải. Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu 3960/C09-TT2 bên trong chứa ma túy và bỏ bao gói mẫu và 01 điện thoại di động ViVo đã qua sử dụng, bị vỡ màn hình. Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của UBTVQH 14 về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Phần tranh luận: Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, tại lời nói sau cùng bị cáo nhận thức hành vi vi phạm của mình đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất để bị cáo cải tạo tốt sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[1.2] Về phần nhân thân lý lịch của bị cáo Cao Hồng H: Tại phần lý lịch của bản án hình sự sơ thẩm số 138/2010/HSST ngày 30/6/2010 của Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh xác định Cao Hồng H, sinh năm 1988 phạm tội “Trộm cắp tài sản”, Tại phần lý lịch của bản án hình sự số 34/2017/HSST ngày 26/7/2017 của Tòa án nhân dân huyện QL, tỉnh NA xác định Cao Hồng H, sinh năm 1992 phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Quá trình điều tra, khởi tố, truy tố trong vụ án này xác định bị cáo sinh năm 1992, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại địa phương, thu thập sổ hộ khẩu gia đình của bị cáo và tại phiên tòa bị cáo xác định sinh năm 1992 và đã bị xét xử tại 02 bản án như trên, do đó Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xét xử đối với bị cáo Cao Hồng H với nhân thân, lý lịch như trên là đúng quy định.

[2] Nhận định của Hội đồng xét xử về hành vi phạm tội của bị cáo:

Lời khai nhận tội của bị cáo Cao Hồng H tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn khách quan, phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của người làm chứng, người chứng kiến sự việc, phù hợp với vật chứng thu giữ và Kết luận giám định của Viện khoa học hình sự Bộ công an và Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên về số chất tinh thể màu trắng thu giữ của bị cáo là Methamphetamine. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Do muốn sử dụng ma túy nên khoảng 21 giờ 00 phút ngày 18/6/2020 Cao Hồng H điều khiển xe mô tô BKS 20B1-088.22 từ nhà trọ thuộc phường TT, thành phố Thái Nguyên đi đến khu vực cầu Sắt thuộc phường QV, thành phố Thái Nguyên hỏi mua của một người đàn ông không rõ lai lịch 300.000 đồng ma túy, sau khi giao tiền người đàn ông bảo Hải đứng đợi, khoảng 10 phút sau có người phụ nữ đưa cho Hải 01 gói nilon màu trắng chứa ma túy đá. Sau khi nhận ma túy Hải cất vào túi quần bên trái phía trước rồi điểu khiển xe đi về, khi Hải điều khiển xe đi được khoảng 20 mét thì bị tổ công tác của Công an phường QV, thành phố Thái Nguyên yêu cầu kiểm tra, H tự giác giao nộp ma túy nên cơ quan công an đã lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang vào hồi 21 giờ 30 phút cùng ngày. Cùng ngày cơ quan điều tra công an thành phố Thái Nguyên đã cân kiểm tra số tinh thể màu trắng xác định khối lượng 0,351 gam, Giám định là Methamphetamine.

[3] Với hành vi mua 0,351gam Methamphetamine với mục đích để sử dụng như trên, hành vi của bị cáo Cao Hồng H đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

[4] Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi của bị cáo đã xâm phạm quyền quản lý, sử dụng độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, là nguyên nhân phát sinh nhiều tệ nạn và tội phạm khác. Tệ nạn ma túy là hiểm họa lớn cho toàn xã hội, hành vi của bị cáo không chỉ hủy hoại sức khỏe của bản thân, làm suy thoái giống nòi, làm khánh kiệt kinh tế, phá hoại hạnh phúc gia đình mà còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội. Bản thân bị cáo phải nhận thức được tác hại của ma túy đối với người sử dụng và đối với xã hội, tuy nhiên bị cáo không từ bỏ ma túy mà vẫn mua ma túy phục vụ cho nhu cầu của bản thân.

[5] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, năm 2017 bị cáo bị xét xử về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” đến nay bản án chưa được xóa án tích, do đó lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp “Tái phạm” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Xét nhân thân bị cáo đã bị xét xử và đi cải tạo nhiều lần về các hành vi phạm tội khác nhau tuy nhiên bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện mà tiếp tục lao vào con đường phạm tội, do đó Hội đồng xét xử xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[6] Hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung “phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng....tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Xét bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản, thu nhập, mua ma túy với mục đích để sử dụng cho bản thân do đó Hội đồng xét xử xem xét không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Xử lý vật chứng:

[7.1] Đối với bì niêm phong Methamphetamine cần tịch thu tiêu hủy;

[7.2] Đối với chiếc điện thoại ViVo quá trình điều tra cơ quan điều tra đã mở niêm phong đồ vật bị tạm giữ ngày 26/6/2020 xác định tại phần nhật ký cuộc gọi đến, cuộc gọi đi và cuộc gọi nhỡ: không có; Tin nhắn, ứng dụng zalo, Messenger không thể hiện nội dung trò chuyện gì, bị cáo xác định không sử dụng để liên hệ mua bán ma túy. Tại phiên toàn bị cáo xác định hiện nay điện thoại đã vỡ màn hình không còn giá trị sử dụng nên không có yêu cầu gì đối với điện thoại trên do đó Hội đồng xét xử xem xét tịch thu tiêu hủy.

[7.3] Đối với xe mô tô VESPA LX BKS 20B1-088.22 bị cáo sử dụng đi mua ma túy, qua xác định chủ sở hữu là Nguyễn Thị Th, sinh năm 1987 trú tại tổ X, phường TD khi đăng ký xe (nay chị Th chuyển về tổ X, phường PĐP, TPTN) khi chị Th cho H mượn xe để sử dụng thì chị Th không biết H sử dụng xe đi mua ma túy. Ngày 09/7/2020 chị Th có đơn xin xe trên, ngày 05/9/2020 cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên đã trả cho chị Th quản lý sử dụng nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[9] Về nguồn gốc Heroin: Cao Hồng H khai đưa tiền mua ma túy cho một người đàn ông và nhận ma túy từ một người phụ nữ, không rõ lai lịch địa chỉ tại S, phường QV, thành phố Thái Nguyên, quá trình điều tra không xác minh được nhân thân, lai lịch của những người này nên chưa có căn cứ xem xét.

[10] Mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa đối với bị cáo là phù hợp được chấp nhận Vì các lẽ trên, Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Cao Hồng H phạm tội " Tàng trữ trái phép chất ma túy"

[2] Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt: Cao Hồng H 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/6/2020.

[3] Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam bị cáo Cao Hồng H 45 (Bốn mươi năm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

[4] Xử lý vật chứng vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong số 3960/C09-TT2 bên trong chứa ma túy và vỏ bao gói mẫu. Mặt sau phong bì có chữ ký của Đoàn T Lệ Hằng, Phạm Anh Tuấn và các dấu của Viện khoa học hình sự Bộ công an và 01 điện thoại di động ViVo, vỏ màu xanh, đã qua sử dụng số Imei 1: 860062049938797, số Imei 2: 860062049938789, vỡ màn hình.

(Hiện vật chứng nêu trên đang lưu giữ tại kho của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên theo biên bản giao nhận số 485 ngày 09/9/2020).

[5] Về án phí sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Cao Hồng H phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

[6] Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo Cao Hồng H có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

307
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 518/2020/HS-ST ngày 24/11/2020 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:518/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về