Bản án 51/2021/HS-ST ngày 28/09/2021 về tội mua bán người và mua bán người dưới 16 tuổi

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 51/2021/HS-ST NGÀY 28/09/2021 VỀ TỘI MUA BÁN NGƯỜI VÀ MUA BÁN NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 28 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở, Toà án nhân dân tỉnh Lào Ci xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 27/2021/TLST-HS ngày 08 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2021/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 6 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 27/2021/QĐXXST-HS ngày 21/7/2021; số 43/2021/QĐXXST-HS ngày 20/8/2021; số 54/2021/QĐXXST-HS ngày 20/9/2021 đối với Các bị Cáo:

1. Họ và tên: Sùng A C (Tên gọi khác: Minh). Giới tính: Nam. Sinh ngày 10/10/1991 tại huyện Đ, tỉnh Lai Châu. Nơi cư trú: Bản P1, xã T, huyện N, tỉnh Điện Biên. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Mông. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: 9/12. Tiền án, tiền sự: Không.

Bố đẻ: Sùng A K (Đã chết); Mẹ đẻ: Mùa Thị D, sinh năm 1955, Hiện trú tại: Bản P1, xã T, huyện N, tỉnh Điện Biên. Có vợ là Giàng Thị S1, sinh năm 1991; Con có 03 con lớn nhất sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm 2017.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/7/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lào Ci. Có mặt.

2. Họ và tên: Thào Seo H (Tên gọi khác: Không). Giới tính: Nam. Sinh ngày 01/01/1976 tại xã N1, huyện H1, tỉnh Lào Ci. Nơi cư trú: Thôn 6 Minh TiếnT2, xã H2, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc:

Mông. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Làm ruộng. Trình độ học vấn: Không biết chữ. Tiền án, tiền sự: Không.

Bố đẻ: Thào Seo P2 (đã chết ); Mẹ đẻ: Giàng Thị M, sinh năm 1943, Trú tại: Thôn 6 T2, xã H1, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang. Có vợ là Lầu Thị M1, sinh năm 1978 và 06 con, lớn nhất sinh năm 1997 nhỏ nhất sinh năm 2009.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/7/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lào Ci. Có mặt.

3. Họ và tên: Chang A V (Tên gọi khác: Không). Giới tính: Nam. Sinh ngày 20/12/1987 tại xã L, huyện Đ, tỉnh Lai Châu. Nơi cư trú: Bản T2, xã L, huyện Đ, tỉnh Lai Châu. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Mông. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: 1/12. Tiền án, tiền sự: Không.

Bố đẻ: Chang A T (đã chết ); Mẹ đẻ: Giàng Thị Sâu, sinh năm 1945, hiện trú tại Bản T1, xã L, huyện Đ, tỉnh Lai Châu. Có vợ là Mùa Thị M1, sinh năm 1994 và 02 con, lớn nhất sinh năm 2007, nhỏ nhất sinh năm 2017.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/7/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lào Ci. Có mặt.

4. Họ và tên: Sùng A T (Tên gọi khác: Không). Giới tính: Nam. Sinh ngày: 11/12/1999 tại huyện Đ, tỉnh Lai Châu. Nơi cư trú: Bản Sử Thàng, xã M1, huyện Đ, tỉnh Lai Châu. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Mông. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: 9/12. Tiền án, tiền sự: Không.

Bố đẻ: Sùng A C1, sinh năm 1975; Mẹ đẻ: Giàng Thị C2, sinh năm 1977. Hiện trú tại thôn: Bản T2, xã M1, huyện Đ, tỉnh Lai Châu. Có vợ là Hảng Thị S2, sinh năm 2000 và 02 con, lớn nhất sinh năm 2018, nhỏ nhất sinh năm 2020.

Bị tạm giam từ ngày 07/8/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lào Ci. Có mặt.

5. Họ và tên: Chang A L (Tên gọi khác: Không). Giới tính: Nam. Sinh ngày 18/6/1996 tại huyện Đ, tỉnh Lai Châu. Nơi cư trú: Bản T1, xã L, huyện Đ, tỉnh Lai Châu. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Mông. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: 7/12. Tiền án, tiền sự: Không.

Bố đẻ: Chang A G (Đã chết); Mẹ đẻ: Hảng Thị L1, sinh năm 1975, Hiện trú tại Bản T, xã L, huyện Đ, tỉnh Lai Châu. Có vợ là Sùng Thị M1, sinh năm 2002 và 01 con sinh năm 2020.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/7/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lào Ci. Có mặt.

6. Họ và tên: Thào Seo Áo (Tên gọi khác: Không). Giới tính: Nam. Sinh ngày 09/7/1995 tại huyện Y1, tỉnh Lào Ci. Nơi cư trú: thôn C1, xã T2, huyện Y1, tỉnh Lào Ci. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Mông. Tôn giáo: Tin lành. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: Không biết chữ. Tiền án, tiền sự:Không.

Bố đẻ: Thào Seo C2, sinh năm 1963; Mẹ đẻ: Sùng Thị S2, sinh năm 1966, Hiện trú tại: thôn C, xã T2, huyện Y1, tỉnh Lào Ci. Có vợ là Ma Thị G1, sinh năm 2001, bị Cáo chưa có con.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/07/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lào Ci. Có mặt.

7. Họ và tên: Ly Seo P (Tên gọi khác: Ly Seo P2). Giới tính: Nam. Sinh ngày 20/11/1996 tại xã Y2, huyện Y1, tỉnh Lào Ci. Nơi cư trú: Bản K, xã Y2, huyện Y1, tỉnh Lào Ci. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Mông. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: Không biết chữ. Tiền án, tiền sự: Không.

Bố đẻ: Ly Seo S2 (Đã chết); Mẹ đẻ: Sùng Thị M1, sinh năm 1956, Hiện trú tại: Bản K, xã Y2, huyện Y1, tỉnh Lào Ci. Có vợ là Giàng Thị S2, sinh năm 2000 và 02 con, lớn nhất sinh năm 2016, nhỏ nhất sinh năm 2018.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/7/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lào Ci. Có mặt.

- Người bào chữa cho Các bị Cáo:

+ Người bào chữa cho bị Cáo Sùng A C: Bà Liệu Thị N2. Có mặt + Người bào chữa cho bị Cáo Chang A V, Thào Seo H: Bà Đỗ Thị L O.Có mặt.

+ Người bào chữa cho bị Cáo Thào Seo Áo, Chang A L: Bà Bùi Thị N3.Có mặt.

+ Người bào chữa cho bị Cáo Sùng A T: Bà Hoàng Thị Diễm H2. Có mặt.

+ Người bào chữa cho bị Cáo Ly Seo P: Bà Nguyễn Thị Thu H3. Có mặt.

Đều là trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Lào Ci.

- Bị hại:

+ Chị Thào Thị L3 (Sinh năm 2002). Địa chỉ: Thôn S, xã S, huyện K, tỉnh Lào Ci. Vắng mặt.

+ Chị Ma T (Sinh năm 2002. Địa chỉ: Thôn T2, xã S, huyện K, tỉnh Lào Ci. Vắng mặt.

Đại diện hợp pháp của chị Ma T: Ông Ma C1. Địa chỉ: Thôn T2, xã S, huyện K, tỉnh Lào Ci. Có mặt.

+ Chị Vàng Thị C3 (Sinh năm 2004). Địa chỉ: Bản D1, xã L, huyện Đ1, tỉnh Điện Biên. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

Đại diện hợp pháp của chị Vàng Thị Ch: Anh Vàng A P. Địa chỉ: Bản D, xã L, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. Vắng mặt.

+ Chị Giàng Thị S (Sinh năm 2003). Địa chỉ: Bản D, xã L, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

+ Chị Vàng Thị Đ (Sinh năm 1999). Địa chỉ: Bản T, xã L, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

+ Chị Thào Thị M (Sinh năm 2002). Địa chỉ: Bản C, xã S, huyện T, tỉnh Lai Châu. Có mặt.

+ Chị Thào Thị G (Sinh năm 2003). Địa chỉ: Bản C, xã S, huyện T, tỉnh Lai Châu. Vắng mặt.

Đại diện hợp pháp của chị Thào Thị G: Anh Thào A P. Địa chỉ: Bản C, xã S, huyện T, tỉnh Lai Châu. Có mặt.

+ Chị Giàng Thị D (Sinh năm 2000). Địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện B, tỉnh Bắc Kạn. Vắng mặt.

+ Chị Lý Thị Đ (Sinh năm 2000). Địa chỉ: Bản C, xã L, huyện N, tỉnh Bắc Kạn. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

+ Chị Giàng Thị C (Sinh năm 1996). Địa chỉ: Bản B, xã D, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

+ Chị Sùng Thị N (Sinh năm 2003). Địa chỉ: Bản L, xã C, huyện C, tỉnh Yên Bái. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

+ Chị Giàng Thị S (Sinh năm 2003). Địa chỉ: Bản G, xã C, huyện C, tỉnh Yên Bái. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

+ Chị Lý Thị M (Sinh năm 2003). Địa chỉ: Bản X, xã N, huyện C, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt.

Đại diện hợp pháp của chị Lý Thị M: Ông Lý A M. Địa chỉ: Bản X, xã N, huyện C, tỉnh Yên Bái. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

+ Chị Lý Thị S (Sinh năm 2002). Địa chỉ: Bản X, xã N, huyện C, tỉnh Yên Bái. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

+ Chị Sùng Thị N (Sinh năm 2003). Địa chỉ: Bản T, xã H, huyện Đ, tỉnh Lai Châu. Vắng mặt.

Đại diện hợp pháp của chị Sùng Thị N: Ông Sùng A D. Địa chỉ: Bản T, xã H, huyện Đ, tỉnh Lai Châu. Có mặt.

+ Chị Hạng Thị T (Sinh năm 1997). Địa chỉ: Bản H, xã T, huyện T, tỉnh Lai Châu. Vắng mặt.

Đại diện hợp pháp của chị Hạng Thị T: Anh Hạng A H. Địa chỉ: Bản H, xã T, huyện T, tỉnh Lai Châu. Vắng mặt.

+ Chị Vừ Thị P (Sinh năm 2001). Địa chỉ: Bản T, xã S, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

Đại diện hợp pháp của chị Vừ Thị P: Ông Vừ Giống N. Địa chỉ: Bản T, xã S, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. Vắng mặt.

+ Chị Giàng Thị C (Sinh năm 2000). Địa chỉ: Bản H, xã N, huyện M, tỉnh Sơn La. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

+ Chị Giàng Thị Đ (Sinh năm 2004). Địa chỉ: Bản H, xã N, huyện M, tỉnh Sơn La. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

Đại diện hợp pháp của chị Giàng Thị Đ: Bà Vừa Thị D. Địa chỉ: Bản H, xã N, huyện M, tỉnh Sơn La. Vắng mặt.

+ Chị Lù Thị S (Sinh năm 1995). Địa chỉ: Bản C, xã C, huyện Y, tỉnh Sơn La. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

+ Chị Sồng Thị N (Sinh năm 1989). Địa chỉ: Bản V, xã V, huyện Y, tỉnh Sơn La. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

+ Chị Vàng Thị C (Sinh năm 2003). Địa chỉ: Thôn T, xã N, huyện H, tỉnh Lào Ci. Có mặt.

+ Chị Hảng Thị S (Sinh năm 2002). Địa chỉ: Thôn T, xã N, huyện H, tỉnh Lào Ci. Vắng mặt.

- Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại:

+ Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Các bị hại: Ông Tạ Ngọc V - Luật S Văn phòng luật S Tạ V và Cộng sự. Địa chỉ: Số 879 H, quận K, Hà Nội. Có mặt.

+ Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại Giàng Thị S, Lý Thị S1, Sùng Thị N: Bà La Thị Huyền T - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lào Ci. Có mặt.

+ Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại Vàng Thị C, Giàng Thị S, Giàng Thị Đ: Ông Nguyễn Xuân T1 - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lào Ci. Có đơn xin xét xử vắng mặt (gửi văn bản bào chữa).

+ Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại Thào Thị M: Ông Phan Văn N – Luật S thuộc Đoàn luật S tỉnh Lai Châu. Có đơn xin xét xử vắng mặt (gửi văn bản bào chữa).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Thào Dì. Địa chỉ: Thôn S, xã S, huyện K, tỉnh Lào Ci. (Bố Thào Thị L). Có mặt.

+ Anh Giàng A C. Địa chỉ: Bản D, xã L, huyện Đ, tỉnh Điện Biên (bố Giàng Thị S). Vắng mặt.

+ Ông Vàng A C. Địa chỉ: Bản T, xã L, huyện Đ, tỉnh Điện Biên (Bố Vàng Thị Đ). Vắng mặt.

+ Ông Thào A P. Địa chỉ: Bản C, xã S, huyện T, tỉnh Lai Châu (bố Thào Thị M). Vắng mặt.

+ Ông Sùng A K. Địa chỉ: Bản L, xã C, huyện C, tỉnh Yên Bái (Bố Sùng Thị N). Vắng mặt.

+ Ông Giàng Thào P. Địa chỉ: Bản G, xã C, huyện C, tỉnh Yên Bái (Bố Giàng Thị S). Có đơn xin xét xử vắng mặt.

+ Ông Lý A K. Địa chỉ: Bản X, xã N, huyện C, tỉnh Yên Bái (Bố Lý Thị S). Vắng mặt.

+ Ông Sùng A C. Địa chỉ: Bản T, xã H, huyện Đ, tỉnh Lai Châu (Bố Sùng Thị N). Có mặt.

+ Ông Sồng A D. Địa chỉ: Bản V, xã V, huyện Y, tỉnh Sơn La. (Bố Sồng Thị N). Vắng mặt.

+ Anh Lù A C. Địa chỉ: Bản V, xã V, huyện Y, tỉnh Sơn La. (Anh của Lù Thị S). Có đơn xin xét xử vắng mặt.

+ Ông Vàng Seo P. Địa chỉ: Thôn T, xã N, huyện H, tỉnh Lào Ci. (Bố Vàng Thị C). Vắng mặt.

+ Ông Hảng Seo P. Địa chỉ: Thôn T, xã N, huyện H, tỉnh Lào Ci. (Bố Hảng Thị S). Có mặt.

+ Chị Mùa Thị M. Địa chỉ: Bản T, xã L, huyện Đ, tỉnh Lai Châu. (Vợ của bị Cáo Chang A V). Có mặt.

+ Chị Cáo Thị T – Giám đốc Chi nhánh hợp tác xã H Bình Xanh tại Lai Châu. Địa chỉ: Tổ 16, phường P, thành phố C, tỉnh Lai Châu. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Người làm chứng:

+ Anh Trần Bá M. Địa chỉ: Tổ 25, phường P, thành phố C, tỉnh Lai Châu. Vắng mặt.

+ Chị Nguyễn Thị L. Địa chỉ: Bản Đ, xã H, huyện Đ, tỉnh Lai Châu. Vắng mặt. mặt.

+ Chị Sùng Thị C. Địa chỉ: Bản T, xã H, huyện Đ, tỉnh Lai Châu. Vắng + Anh Vàng S. Địa chỉ: Thôn Na Lốc 4, xã L, huyện K, tỉnh Lào Ci.

Vắng mặt.

- Người phiên dịch tiếng Hmông: Chị Giàng Thị P. Địa chỉ: phố T, phường L, thành phố C1, tỉnh Lào Ci. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đầu năm 2015, Sùng A C sang Trung Quốc làm thuê cho nông trường trồng chuối tại Pả Sa - Trung Quốc. Khoảng năm 2017, Thào Seo H đi Trung Quốc làm thuê thì gặp C, C đã thuê H về lán nấu cơm cho C. Tháng 3/2018, Sùng A C quen biết với Sinh, Thề (là người Việt Nam làm thuê bên Trung Quốc, không xác định được nhân thân, lai lịch cụ thể). Sinh, Thề đã rủ C tham gia dụ dỗ phụ nữ Việt Nam đưa sang Trung Quốc bán, C đồng ý. Sinh và Thề hướng dẫn C sử dụng hình ảnh Công an, Bộ đội Biên phòng Việt Nam hoặc Trung Quốc hoặc sử dụng hình ảnh chụp nam giới có ngoại hình bắt mắt làm ảnh đại diện trên tài khoản Facebook để dễ dàng dụ dỗ, lừa gạt Các nạn nhân. Cũng trong thời gian này, C quen biết và có số điện thoại của Vảng và Thông (là người Mông - Trung Quốc), sau đó C bàn bạc với Vảng về việc đưa phụ nữ sang Trung Quốc bán cho Vảng; đồng thời đặt vấn đề với Thông về việc thuê Thông đón phụ nữ từ Việt Nam sang Trung Quốc cho C. Đến tháng 08/2018, Chang A V cùng Giàng A Sử, sinh năm 1998 (đang chấp hành án tại Trại giam Hồng C) đến lán của Sùng A C để đi làm thuê thì Chang A V biết việc C dụ dỗ phụ nữ sang Trung Quốc bán nên nảy sinh ý định thực hiện hành vi phạm tội cùng C. Sau đó, V quen biết và có số điện thoại của Đặng Hải Tân (tên gọi khác Tẩn Lạng), sinh ngày 27/10/1975, trú tại Tiểu Tổ Trung Trại 2, thôn Bá Sái, thị trấn Hà Khẩu, huyện Hà Khẩu, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Thông qua V thì C cũng quen biết và được Đặng Hải Tân rủ đi tìm phụ nữ Việt Nam đưa sang Trung Quốc cho Đặng Hải Tân đưa đi bán, C đồng ý. Đến khoảng tháng 10/2018, C liên lạc và bàn bạc, thỏa thuận việc mua bán người với một người phụ nữ tên là Pằng (là người Mông - Trung Quốc do C quen biết Pằng từ năm 2017).

Để thực hiện hành vi phạm tội của mình và đồng bọn, Sùng A C đã sử dụng Các lán trại bằng tôn do C thuê của người Trung Quốc tên Sì từ tháng 6/2018 làm địa điểm trông giữ Các bị hại trước khi đưa đi bán, nếu bị hại do đồng bọn của C đưa đến thì C sẽ thu tiền thuê địa điểm trông giữ bị hại là 1.500CNY (một nghìn năm trăm Nhân dân tệ) một bị hại. Về việc đưa Các bị hại từ nơi cư trú đến lán trại bên Trung Quốc, khi dụ dỗ, lừa gạt được người bị hại thì C và động bọn sẽ yêu cầu bị hại tự bắt xe hoặc C và đồng bọn tìm hiểu Các hãng xe taxi tại nơi cư trú của Các bị hại, rồi gọi điện thoại thuê xe taxi đến địa điểm hẹn trước với Các bị hại; cho thông tin, đặc điểm của Các bị hại để xe taxi đón, đưa Các bị hại sang thành phố Lào Ci; tiếp đó C và đồng bọn gửi số điện thoại của bị hại cho Đặng Hải Tân hoặc đối tượng tên Thông để bố trí thuê xe ôm ở Việt Nam và Trung Quốc đón, đưa Các bị hại đến lán do C thuê để trông giữ, quản lý Các bị hại trước khi bán.

Qua xác minh điều tra, đủ căn cứ xác định từ tháng 02/2018 đến tháng 5/2020, Sùng A C và đồng bọn đã dụ dỗ, lừa gạt nhiều bị hại ở Các tỉnh Lào Ci, Yên Bái, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Bắc Kạn đưa sang Trung Quốc bán cho Đặng Hải Tân, Vảng và Pằng với giá từ 12.000CNY (mười hai nghìn Nhân dân tệ) đến 20.000CNY (hai mươi nghìn Nhân dân tệ), cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng tháng 02/2018, Sùng A C sử dụng nick Facebook tên "Mùa A Hồng" để kết bạn với nick Facebook tên "Thào L" do Thào Thị L (sinh ngày 26/3/2002, trú tại thôn Cáo Sơn, xã Cáo Sơn, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Ci) sử dụng. Sùng A C giới thiệu tên là Mùa A T, công tác trong lực lượng Biên phòng Trung Quốc và đang đóng quân tại khu vực biên giới giáp với thành phố Lào Ci và tán tỉnh, yêu đương Thào Thị L, rủ L sang Trung Quốc thăm C. Trong một lần nói chuyện với Thào Thị L qua điện thoại, C nghe được giọng của Ma T (sinh ngày 06/5/2002, đăng ký HKTT tại thôn Lồ Suối Tủng, xã Cáo Sơn, huyện Mường Khương), C hỏi là ai thì L nói là bạn học cùng. Thấy vậy C hỏi xin nick Facebook của T, L đồng ý và đọc cho C biết. Khi đó C và Thề đang ở cùng nhau nên Thề nghe được và đã kết bạn với Ma T qua Facebook theo thông tin L cho C. Thề giới thiệu làm Biên phòng Trung Quốc và dụ dỗ T sang Trung Quốc thăm Thề.

Ngày 12/3/2018, Thào Thị L gọi điện báo cho C biết về việc ngày hôm sau sẽ cùng T sang Trung Quốc thăm C và Thề. C đồng ý. Sáng ngày 13/3/2018, Ma T gọi điện cho Thề đến đón T và L sang Trung Quốc rồi T đi xe máy biển số 24B1 - 80.452 đèo L đến ngã ba Bản Phiệt, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Ci. Tại đây, T và L gửi xe máy lại và được một người lái xe ôm (không xác định được nhân thân, lai lịch) đón rồi đưa vào khu vực biên giới thuộc thôn Nậm Sò, xã Bản Phiệt, huyện Bảo Thắng; người lái xe ôm để T, L lội suối vượt biên giới sang Trung Quốc gặp Thề cùng Thông đến đón. Trên đường đưa T, L vào nội địa Trung Quốc, do đường bị sạt lở nên Thề gọi điện thoại cho Sùng A C đi xe ô tô của Lý A Sử (người Mông - Trung Quốc) đến đón cả bọn và cùng đưa Thào Thị L, Ma T về lán của C để trông giữ; Thề trực tiếp trông giữ T còn C trông giữ L, ngoài ra C có phân công cho Thào Seo H tham gia trông giữ L.

Khoảng một tuần sau, Thề liên lạc cho người phụ nữ ở Trung Quốc đến mua Ma T, tiền bán T có được Thề trả cho C 1000CNY (một nghìn Nhân dân tệ) là tiền Thề mượn của C trước đó. Sau khi bán Ma T xong được khoảng một tuần thì C bán Thào Thị L cho Vảng, Thề là người đi lấy tiền bán L, sau khi trừ hết chi phí Thề đưa cho C 6.000CNY (u nghìn Nhân dân tệ). Tiền có được, C chia cho Thào Seo H 1000CNY (một Nhân dân tệ).

Về P bị hại Thào Thị L, sau khi bị Sùng A C bán cho người Trung Quốc mua về làm vợ, L đã được Công an Trung Quốc giải cứu và trao trả về Việt Nam vào ngày 02/9/2019. Còn bị hại Ma T đến nay không có thông tin gì nên chưa tiến hành giải cứu được.

Trong vụ này, Sùng A C giữ vai trò chính, là người trực tiếp thực hiện tội phạm (n Thào Thị L) và cùng đối tượng tên Thề bán Ma T. Thào Seo H là đồng phạm với vai trò người thực hành (giúp C trông giữ Thào Thị L). Tại thời điểm bị bán, bị hại Thào Thị L 15 tuổi 11 tháng 04 ngày; bị hại Ma T 15 tuổi 10 tháng 06 ngày;

Vụ thứ hai: Khoảng tháng 10/2018, Chang A V cùng Chang A L sang lán của C tại Hà Khẩu - Trung Quốc. Tại đây, qua mạng xã hội Facebook, Chang A V kết bạn, làm quen với Vàng Thị C (sinh ngày 06/10/2004, trú tại bản Trống Dình, xã Háng Lìa, huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên), V giới thiệu tên là Phong, 23 tuổi, là người Trung Quốc, đang làm chủ trồng chuối và chưa có vợ, đồng thời tán tỉnh, dụ dỗ C đến làm vợ, C đồng ý. Thấy C tin tưởng, V giả vờ hỏi xin C số điện thoại của người phụ nữ khác để giới thiệu cho bạn, C không nghi ngờ và cho V số điện thoại của Giàng Thị S (sinh ngày 11/4/2003, ở cùng bản với C). Khi có được số điện thoại của S, V rủ L dụ dỗ, lừa gạt phụ nữ sang Trung Quốc bán lấy tiền, L đồng ý nên V cho L số điện thoại của S để L làm quen, tán tỉnh nhưng thực chất là để lừa S sang Trung Quốc để bán. L làm quen với S và giới thiệu mình là người Trung Quốc, tên Minh, là bạn và đang làm cùng Phong, L dụ dỗ S sang Trung Quốc làm vợ L thì S đồng ý. Cũng trong thời gian này, Sùng A T đến lán của C để đi làm thuê và biết V, L đang dụ dỗ phụ nữ sang lán của C để đưa đi bán nên T cũng nảy sinh ý định cùng tham gia. Sẵn quen biết với Vàng Thị Đ (sinh ngày 21/11/1999, cư trú tại bản Huổi Tống, xã Háng Lìa, huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên) qua mạng xã hội Facebook từ trước nên T lừa Đ sang Trung Quốc bán. T đã tán tỉnh, yêu đương và rủ Đ đến làm vợ mình và được Đ đồng ý.

Trong quá trình dụ dỗ, lừa gạt C, S và Đ thì V, L, T đều kể cho nhau biết về việc dụ dỗ C, S, Đ để đưa sang Trung Quốc bán. Vì vậy sau khi đã dụ dỗ được C, S, Đ đồng ý sang Trung Quốc, ngày 31/10/2018, V liên hệ một xe taxi (không xác định được đặc điểm của xe) đón C, S, Đ để đưa sang thành phố Lào Ci, tỉnh Lào Ci. Khi biết rõ lái xe taxi đã đón được C, S, Đ thì V gọi điện cho Sùng A C để nhờ C sắp xếp xe ôm đón C, S, Đ. C đã liên lạc cho Thông đón C, S, Đ từ Việt Nam sang đến lán của C. Tại đây V trực tiếp trông giữ C, L trông giữ S còn T trông giữ Đ. Sau đó Vàng Thị Đ được Lý A Sử (là một đối tượng người Mông Trung Quốc - Đã chết) đưa đi bán cho một gia đình người Trung Quốc. Khoảng một tuần sau, do có việc gia đình nên V, giao C, S cho C nhờ bán giúp với giá 15.000CNY (mười năm nghìn Nhân dân tệ) rồi V, L, T cùng đi về Việt Nam, trước khi về T được C đưa cho 1.000CNY (một nghìn Nhân dân tệ. Do là lần đầu tham gia mua bán người nên T cho rằng đây là số tiền T được hưởng từ việc bán Đ). Sau đó, C đã bán C, S cho Vảng với giá 16.000CNY (mười sáu nghìn Nhân dân tệ) một người. Số tiền bán Vàng Thị C, Giàng Thị S có được, Sùng A C tự trừ 3.000CNY (ba nghìn nhân dân tệ) tiền thuê địa điểm trông giữ C, S và hưởng 2.000CNY (hai nghìn Nhân dân tệ) tiền chênh lệch. Sau khi trừ Các chi phí thuê xe, thuê người đón C, S, C gửi số tiền còn lại trả cho V và L (V đã chia cho L 5.000CNY, giữ lại 4.500CNY). Số tiền này V và L đã chi tiêu C nhân hết.

Về P bị hại Giàng Thị S và Vàng Thị C, sau khi bị Chang A L và Chang A V bán sang Trung Quốc một thời gian đã được Công an Trung Quốc giải cứu, đẩy đuổi về Việt Nam qua đường tiểu ngạch thuộc thành phố Móng Ci, tỉnh Quảng Ninh vào năm 2019. Đối với Vàng Thị Đ, sau khi bị Lý A Sử bán cho người Trung Quốc mua làm vợ, Đ được Công an Trung Quốc giải cứu và đẩy đuổi về Việt Nam qua đường tiểu ngạch thuộc địa phận tỉnh Cáo Bằng vào ngày 21/12/2020.

Trong vụ này, Chang A V giữ vai trò chính, là người trực tiếp thực hiện tội phạm (lừa bán Vàng Thị C), vừa giữ vai trò xúi giục (dụ dỗ Chang A L lừa bán Giàng Thị S); Chang A L là người thực hành (trực tiếp lừa Giàng Thị S); Sùng A T là người thực hành (lừa bán Vàng Thị Đ); Sùng A C là người thực hành (bố trí xe đưa C, S, Đ sang Trung Quốc và bán Vàng Thị C, Giàng Thị S). Tại thời điểm bị bán, bị hại Vàng Thị C 14 tuổi 25 ngày; bị hại Giàng Thị S 15 tuổi 06 tháng 20 ngày, bị hại Vàng Thị Đ đã trên 16 tuổi;

Vụ thứ ba: Khoảng tháng 11/2018, qua mạng xã hội Facebook, Sùng A C sử dụng nick “Mùa A Hồng” kết bạn, làm quen với Thào Thị Mẩy (sinh ngày 22/12/2002, trú tại bản Lèng Chư, xã Dào San, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu). C giới thiệu tên Tú, làm Bộ đội Biên phòng Trung Quốc, đang công tác gần thành phố Lào Ci, tỉnh Lào Ci và tán tỉnh, yêu đương Mẩy, rủ Mẩy ra thành phố Lào Ci chơi. Mẩy đồng ý và nói có bạn là Thào Thị Giàng (sinh ngày 14/02/2003, ở cùng bản với Mẩy) cũng muốn đi chơi cùng. Thấy vậy, C nói dối là chỗ làm của C còn nhiều thanh nhiên chưa có vợ, muốn yêu ai cũng được.

Ngày 20/11/2018, Mẩy và Giàng thông báo cho C biết là sẽ đến chơi với C nên C đã thuê một xe taxi (không xác định được đặc điểm xe) với giá 2.000.000đ (hai triệu đồng) đến khu vực cây xăng thuộc bản Lèng Chư, xã Dào San, huyện Phong Thổ để đón Mẩy, Giàng đưa ra thành phố Lào Ci. Trong khi đó, C liên lạc cho Thông để Thông sắp xếp xe ôm đón Mẩy, Giàng từ thành phố Lào Ci sang lán của C. Sau khi đưa được Mẩy, Giàng đến lán của mình C cùng Sinh tổ chức trông giữ Mẩy, Giàng trong thời gian chờ người đến mua. Khoảng một tháng sau, C bán Thào Thị Mẩy cho Đặng Hải Tân với giá 13.000CNT (mười ba nghìn Nhân dân tệ). Sau đó khoảng một tuần, C bán Thào Thị Giàng cho Pằng với giá 15.000CNY (mười năm nghìn Nhân dân tệ). Số tiền bán Mẩy, Giàng có được, C chia cho Sinh 6.000CNY (sáu nghìn Nhân dân tệ). Còn lại C giữ 22.000CNY (hai mươi hai nghìn Nhân dân tệ) để chi tiêu.

Sau khi bị lừa bán cho một người đàn ông Trung Quốc mua về làm vợ, đến ngày 17/11/2019 Thào Thị Mẩy được người đàn ông này cho về Việt Nam. Còn bị hại Thào Thị Giàng, hiện không xác định được đang ở đâu Trong vụ này, Sùng A C giữ vai trò chính. Tại thời điểm bị đưa sang Trung Quốc bán, bị hại Thào Thị Mẩy 15 tuổi 11 tháng 29 ngày, bị hại Thào Thị Giàng 15 tuổi 09 tháng 06 ngày.

Vụ thứ tư: Cuối năm 2018, qua mạng xã hội Facebook, Thào Seo H sử dụng tên Dũng, là Công an Biên phòng ở Lào Ci kết bạn, làm quen với Giàng Thị D (sinh ngày 03/02/2000, cư trú tại thôn Bản Trù, xã Chu Hương, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn). Qua nói chuyện, biết D đang tìm việc làm nên H đã dụ dỗ, lừa gạt D bằng Cách rủ D lên Lào Ci nấu cơm cho cơ quan H đang công tác, tháng đầu H sẽ trả lương cho D 07 triệu đồng; từ tháng thứ 2 trở đi H sẽ trả lương cho D từ 09 triệu đồng đến 10 triệu đồng một tháng. D tin tưởng và đồng ý. Ngày 01/3/2019, D thông báo cho H biết là ngày hôm sau sẽ lên Lào Ci. Thấy vậy, H bảo D cứ đi xe ô tô khách tới thành phố Lào Ci H sẽ đón. Ngày hôm sau khi biết D đã đón được xe khách sang thành phố Lào Ci, H nhờ Sùng A C sắp xếp xe ôm đón D từ Việt Nam sang lán của C để trông giữ chờ đưa đi bán. Thấy D Cáo, to nên H và C thống nhất để C trông giữ D, còn H trông giữ một phụ nữ tên Dung (là bị hại do C dụ dỗ, lừa gạt đưa sang Trung Quốc từ tháng 02/2019 để bán nhưng chưa bán được). Khoảng một tuần sau, C cùng H đưa D và một người phụ nữ (mà trước đó Ly A Sử nhờ C trông giúp) giao cho Sử để Sử bán cho người Trung Quốc mua D làm vợ với giá 15.000CNY (mười năm nghìn Nhân dệ). Số tiền bán D, H trả cho C 1.500CNY (mười năm nghìn Nhân dân tệ) tiền thuê địa điểm để trông giữ D. Còn lại H được hưởng 13.500CNY (mười ba nghìn Nhân dân tệ) để chi tiêu.

Về phía bị hại Giàng Thị D, sau khi bị bán cho người Trung Quốc mua về làm vợ, đến ngày 22/5/2019 D được Công an Trung Quốc giải cứu, đẩy đuổi qua đường mòn ở huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang. Tại thời điểm bị đưa sang Trung Quốc bán, bị hại Giàng Thị D đã trên 16 tuổi.

Trong vụ này, Thào Seo H giữ vai trò chính là người thực hành (lừa bán Giàng Thị D); Sùng A C giữ vai trò là thực hành (bố trí xe đưa D sang Trung Quốc, trông giữ D và giúp sức đưa D đi bán cho người Trung Quốc).

Vụ thứ năm: Khoảng tháng 02/2019, qua mạng xã hội Facebook, Sùng A C quen biết với một người đàn ông ở Bắc Kạn (C không biết lai lịch cụ thể), sử dụng tên nick là “Nraug Hmoob Yaj”. C hỏi xin số điện thoại của phụ nữ để C làm quen, tán tỉnh thì được người đàn ông này cho số điện thoại Lý Thị Đ (sinh ngày 13/4/2000, trú tại bản Cm, xã Cổ Linh, huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn). Sau khi có số điện thoại và Facebook, C kết bạn làm quen với Đ và nói dối tên là Tú, đang làm ở công ty Samsung bên Trung Quốc giáp với thành phố Lào Ci, đồng thời tán tỉnh, dụ dỗ Đ làm vợ nhưng thực chất là để lừa Đ sang Trung Quốc để C đưa đi bán.

Sau khi đã dụ dỗ được Đ, ngày 09/02/2019 (tức ngày 05/01/2019 âm lịch), Sùng A C gọi điện thuê một xe taxi rồi cho số điện thoại, địa chỉ của Đ và yêu cầu lái xe đưa Đ đến thành phố Lào Ci cho C. Sau đó, C gọi điện cho Thông đến lán của C, C đưa Thông 4.000CNY (bốn nghìn Nhân dân tệ) để thuê Thông đi đón Đ, đồng thời nhờ Thông cầm 2.800CNY (hai nghìn tám trăm Nhân dân tệ) đi trả tiền xe taxi giúp C. Thông đồng ý. C cho Thông số điện thoại của lái xe taxi để Thông sắp xếp người đón Đ. Khoảng 9 giờ sáng ngày hôm sau, Thông đưa được Đ đến lán, C phân công cho H trông giữ Đ. Một tuần sau, C bán Đ cho Vảng với giá 15.000CNY (mười năm nghìn Nhân dân tệ). Tiền bán Đ có được, C chia cho H 2.000CNY (hai nghìn Nhân dân tệ) tiền công trông giữ Đ, còn lại C giữ để chi tiêu.

Sau khi bị bán cho người Trung Quốc mua làm vợ, Đ được Công an Trung Quốc giải cứu và trao về Việt Nam qua Cửa khẩu Quốc tế Lào Ci vào ngày tháng năm 2019. Tại thời điểm bị đưa sang Trung Quốc bán, người bị hại Lý Thị Đ đã trên 16 tuổi.

Trong vụ này, Sùng A C là người thực hành tích cực (trực tiếp lừa bán bị hại Lý Thị Đ); Thào Seo H là người thực hành (trông giữ Lý Thị Đ cho C trong thời gian chờ bán).

Vụ thứ sáu: Khoảng tháng 12/2018, qua mạng xã hội Facebook, Chang A V làm quen được với Giàng Thị C (sinh năm 1996, trú tại Bản Púng Báng, xã Tìa Dình, huyện Điện Biên Đông). Khi quen nhau, V nói dối tên là Phong, làm chủ trồng chuối ở Trung Quốc, chưa có vợ. Qua nói chuyện V dụ dỗ, hứa hẹn nếu C sang Trung Quốc lấy V, C sẽ được yêu thương và có cuộc sống sung Sớng. Ngày 02/3/2019 C đồng ý đi sang Lào Ci để V đến đón C về làm vợ, V đã lên mạng Internet tìm kiếm số điện thoại của xe taxi rồi gửi số điện thoại của C cho lái xe đi đón C ra thành phố Lào Ci. Đồng thời V gọi điện cho Thông thuê Thông sắp xếp người cầm tiền về Việt Nam trả tiền taxi và đón C sang Trung Quốc cho V. Khoảng 23 giờ cùng ngày, Thông đưa được C giao cho V, V tiếp tục đưa C về trông giữ tại lán công nhân trồng chuối gần lán của C. Khoảng một tuần sau, V bán Giàng Thị C cho một người mua phụ nữ V không biết tên với giá 14.000CNY (mười bốn nghìn Nhân dân tệ).

Sau khi bị Chang A V bán cho người Trung Quốc, Giàng Thị C được Công an Trung Quốc giải cứu và trao trả về Việt Nam qua Cửa khẩu Quốc tế Lào Ci vào ngày 27/5/2019. Tại thời điểm bị đưa sang Trung Quốc bán, người bị hại Giàng Thị C đã trên 16 tuổi.

Trong vụ này, Chang A V là người thực hành (trực tiếp lừa bán bị hại Giàng Thị C).

Vụ thứ bảy: Khoảng đầu tháng 03/2019, Chang A V kết bạn, làm quen qua mạng xã hội Facebook với Sùng Thị Nga (sinh ngày 18/3/2003, trú tại bản Hú Trù Lình, xã Lao Chải, huyện Mù Cng Chải, tỉnh Yên Bái). Khi quen nhau, V giới thiệu tên là Phong, chưa có vợ, là Cn bộ y tế ở Trung Quốc nhưng sinh sống gần thành phố Lào Ci để tán tỉnh Nga, nói muốn lấy làm vợ. Cũng trong thời gian này, qua mạng xã hội Facebook, Sùng A T quen biết với Giàng Thị Sua (sinh ngày 03/5/2003, cư trú tại bản Háng Gàng, xã Lao Chải, huyện Mù Cng Chải, tỉnh Yên Bái). T nói dối tên Sàng, đang làm việc ở Trung Quốc giáp với thành phố Lào Ci rồi vờ tán tỉnh, yêu đương Sua, rủ Sua đến làm vợ của T. Quá trình dụ dỗ, lừa gạt Nga, Sua thì V và T đều kể cho nhau biết về việc dụ dỗ Nga và Sua để đưa sang Trung Quốc bán.

Sau khi được Nga, Sua đồng ý sang Trung Quốc, ngày 28/3/2019 V gọi điện thuê một xe taxi (không rõ đặc điểm của xe) đến huyện Mù Cng Chải để đón Nga, Sua đưa lên thành phố Lào Ci. Khi biết xe taxi đã đón được người, V gọi điện thuê Thông đón Nga và Sua. Thông đồng ý nên V đã gửi số điện thoại của Nga, Sua cho Thông, sau đó Thông chủ động sắp xếp xe ôm đón Nga, Sua sang Trung Quốc giao cho V và T ở khu vực gần với lán của C. V cùng T tiếp tục đưa Nga, Sua về trông giữ tại lán của C. Buổi trưa cùng ngày, Chang A V liên hệ một người phụ nữ V không biết tên để bán Nga cho người này với giá 13.000CNY (mười ba nghìn Nhân dân tệ) nhưng không trả tiền cho C. Khoảng một tuần sau, Sùng A C bán Giàng Thị Sua giúp Sùng A T được 15.000CNY (mười năm nghìn Nhân dân tệ). C trừ 1.500CNY (một nghìn năm trăm Nhân dân tệ) tiền thuê địa điểm trông giữ Sua, còn lại C đưa cho T. Do trước đó V nợ T 6.000CNY (sáu nghìn Nhân dân tệ) nên T không phải trả chi phí đón Sua cho V.

Sau khi bị bán sâu vào nội địa Trung Quốc, Sùng Thị Nga và Giàng Thị Sua đã được Công an Trung Quốc giải cứu và trao trả về Việt Nam (Nga được trao trả ngày 13/5/2019, Sua được trao trả ngày 18/4/2020). Tại thời điểm bị đưa sang Trung Quốc bán, bị hại Sùng Thị Nga 16 tuổi 10 ngày, bị hại Giàng Thị Sua 15 tuổi 10 tháng 25 ngày.

Trong vụ này, Chang A V giữ vai trò chính và trực tiếp lừa bán Sùng Thị Nga; Sùng A T là người thực hành (lừa bán Giàng Thị Sua); Sùng A C là người thực hành (cho V, T thuê mượn địa điểm trông giữ bị hại Nga, Sua và bán Giàng Thị Sua).

Vụ thứ tám: Khoảng tháng 6/2019, qua mạng xã hội Facebook, Thào Seo H làm quen được với Lý Thị Mảy (sinh ngày 03/7/2003, đăng ký HKTT tại bản Háng Chua Xay, xã Chế Cu Nha, huyện Mù Cng Chải, tỉnh Yên Bái). H nói dối tên Hùng, làm Công an Biên phòng Trung Quốc, ở gần Lào Ci rồi giả vờ tán tỉnh, yêu đương và rủ Mảy về làm vợ H để đưa sang Trung Quốc bán, Mảy đồng ý. Thấy Mảy tin tưởng, H hỏi xin thêm số điện thoại của người phụ nữ khác để giới thiệu cho bạn, Mảy đã cho H số điện thoại của Lý Thị Súa (sinh ngày 06/10/2002, ở cùng bản với Mảy). H sử dụng một số điện thoại khác để gọi điện làm quen Súa và nói dối tên là Tú, là bạn và làm cùng chỗ với Hùng. H cũng tán tỉnh Súa, rủ Súa về làm vợ. Súa tin tưởng và đồng ý.

Sau khi đã dụ dỗ được Mảy và Súa, ngày 01/8/2019 Thào Seo H gọi điện thuê một xe taxi (không xác định được đặc điểm của xe) đến huyện Mù Cng Chải đón Mảy, Súa để đưa lên Lào Ci. Khi lái xe đã đón được Mảy, Súa, H thông báo cho Sùng A C để C sắp xếp người đón Mảy, Súa sang Trung Quốc. C liên lạc cho Thông đón Mảy, Súa đưa sang lán của C ở Trung Quốc giao cho H, C. Nhận người xong, H trực tiếp trông giữ Mảy, C trông giữ Súa. Khoảng một tháng sau, C bán Mảy cho Pằng, tiếp sau đó khoảng một tuần thì Sùng A C bán Súa cho Vảng. Tổng số tiền bán Mảy, Súa là 34.000CNY (ba mươi tư nghìn Nhân dân tệ), H chia cho C 6.000CNY (sáu nghìn Nhân dân tệ) nhưng còn nợ lại C 2.000CNY (hai nghìn Nhân dân tệ). Còn lại H giữ 30.000CNY (ba mươi nghìn Nhân dân tệ) để chi tiêu.

Sau khi bị bán sâu vào nội địa Trung Quốc, Lý Thị Súa đã được Công an Trung Quốc giải cứu và đẩy đuổi về Việt Nam qua đường mòn ở thành phố Móng Ci, tỉnh Quảng Ninh vào tháng 11/2019. Còn Lý Thị Mảy đến nay không có thông tin gì nên chưa tiến hành giải cứu được. Tại thời điểm bị đưa sang Trung Quốc bán, Các bị hại Lý Thị Súa và Lý Thị Mảy đã được 16 tuổi.

Trong vụ này, Thào Seo H và Sùng A C đều là người thực hành, trong đó H trực tiếp dụ dỗ lừa gạt Các bị hại, cùng C trông giữ Các bị hại. Sùng A C tham gia trông giữ Các bị hại và trực tiếp bán Các bị hại.

Vụ thứ chín: Đầu tháng 8/2019, thông qua mạng xã hội Facebook Sùng A C kết bạn, làm quen được với Sùng Thị N (sinh ngày 14/02/2003, đăng ký HKTT tại bản Mao Sao Phìn Thấp, xã Khun Há, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu). C nói dối tên mình là Lý A Tú, làm Công an Biên phòng ở Cửa khẩu Quốc tế Lào Ci sau đó, C vờ tán tỉnh, yêu đương N và muốn lấy N làm vợ, N đồng ý nhưng do đang học lớp 11 nên N bảo phải đợi N học hết cấp 3. Để tạo lòng tin, C đã hai lần nhờ Sinh gửi tiền cho N chi tiêu, mỗi lần là 2.000.000đ (hai triệu đồng).

Đến cuối tháng 8/2019, N nói muốn được C đưa đi Sa Pa chơi dịp nghỉ lễ Quốc khánh 02/9 cùng bạn, thấy vậy C lấy lý do đang bận và bảo N đến chơi với C, ngày hôm sau C sẽ đưa N đi chơi cùng bạn sau, N đồng ý. Ngày 30/8/2019, C gọi điện thoại liên hệ với tổng đài taxi Lai Châu (Công ty TNHHTM Bảo Châu) để thuê xe taxi đón N từ cổng trường THPT Bình Lư, huyện Tam Đường, hãng taxi Lai Châu đã sắp xếp cho anh Trần Bá Mạnh (sinh năm 1987, trú tại tổ 25, phường Đông Phong, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu) đi đón N. Khi biết anh Mạnh đã đón được Sùng Thị N thì C yêu cầu anh Mạnh đưa N đến cầu Cốc Lếu, thành phố Lào Ci, tỉnh Lào Ci, anh Mạnh và C thống nhất giá chở N là 1.000.000đ (một triệu đồng). Đồng thời, C liên hệ, thuê Thông đi đón N với giá 4.000CNY (bốn nghìn Nhân dân tệ) và giúp C cầm 300CNY (ba trăm Nhân dân tệ) đi trả tiền xe taxi. Sau khi Thông đưa N đến lán, C cùng Sinh, Thề trông giữ N. Khoảng một tháng sau, C bán N cho Pằng với giá 16.000CNY (mười sáu nghìn Nhân dân tệ), C chia cho Sinh 2.000CNY (hai nghìn Nhân dân tệ), Thề 1.500CNY (một nghìn năm trăm Nhân dân tệ), còn lại 12.5000CNY (mười hai nghìn năm trăm Nhân dân tệ) C giữ để chi tiêu.

Sau khi bị Sùng A C bán cho Pằng đến nay không có thông tin gì nên chưa tiến hành giải cứu được Sùng Thị N. Tại thời điểm bị đưa sang Trung Quốc bán, người bị hại Sùng Thị N đã trên 16 tuổi.

Trong vụ này, Sùng A C là người thực hành (trực tiếp dụ dỗ lừa gạt và bán Sùng Thị N).

Vụ thứ mười: Khoảng đầu tháng 01/2020, qua mạng xã hội Facebook, Thào Seo H kết bạn, làm quen được với Hạng Thị T (sinh năm 1997, đăng ký HKTT tại bản Cô Lô Hồ, xã Tà Tổng, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu). Khi quen nhau, H nói dối tên là Hùng, làm Biên phòng ở Cửa khẩu Quốc tế Lào Ci, còn T giới thiệu tên là Lư. Sau đó, H giả vờ tán tỉnh, dụ dỗ T đến làm vợ của H nhằm mục đích đưa sang Trung Quốc bán.

Ngày 15/01/2020 âm lịch (ngày 08/02/2020 dương lịch), T gọi điện cho H thông báo hôm sau T sẽ đến làm vợ của H. H nói sẽ sắp xếp xe đến đón T rồi H nhờ C liên hệ xe taxi đi đón T sang thành phố Lào Ci. Trong khi đó H gọi điện cho Đặng Hải Tân nhờ Tân sắp xếp người đón T từ thành phố Lào Ci sang Trung Quốc. Đến khoảng 24 giờ cùng ngày, Tân đưa được T đến lán của C giao cho H để H trực tiếp trông giữ. Cuối tháng 6/2020, H bán T cho Đặng Hải Tân với giá 20.000CNY (hai mươi nghìn Nhân dân tệ). H trả tiền công đón T cho Tân hết 2.000CNY (hai nghìn Nhân dân tệ), còn lại H giữ 18.000CNY (mười tám nghìn Nhân dân tệ), H giữ số tiền này để chi tiêu nhưng cũng chưa trả cho C tiền thuê địa điểm để trông giữ T.

Đối với bị hại Hạng Thị T: Sau khi bị Thào Seo H bán cho Đặng Hải Tân đến nay không có thông tin gì nên chưa tiến hành giải cứu được. Tại thời điểm bị đưa sang Trung Quốc bán, người bị hại Hạng Thị T đã trên 16 tuổi.

Trong vụ này, Thào Seo H giữ vai trò chính, là người thực hành (trực tiếp dụ dỗ, lừa gạt và bán bị hại Hạng Thị T); Sùng A C là người thực hành (liên hệ xe để đưa bị hại đi ra thành phố Lào Ci; cho H thuê mượn địa điểm trông giữ bị hại trước khi H bán bị hại cho đối tượng Trung Quốc).

Vụ thứ mười một: Khoảng tháng 01/2020, qua mạng xã hội Facebook, Sùng A C kết bạn, làm quen được với Vừ Thị P (sinh ngày 06/3/2001, cư trú tại bản Huổi Tấu, xã Chiềng Sơ, huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên). C nói dối tên Lý A Tú đang làm công nhân tại mỏ đồng Lào Ci. Biết P đang làm thuê tại tỉnh Bắc Giang nên C đã rủ P lên Lào Ci làm cùng C với mức lương Cáo. Do đang cần tìm việc làm nên P đồng ý và đi xe taxi lên Lào Ci. Trong khi đó, C gửi số điện thoại của P cho Thông và gọi điện thuê Thông sắp xếp người đón P sang Trung Quốc. Thông đồng ý rồi cầm 2.600CNY (hai nghìn sáu trăm Nhân dân tệ) để trả tiền xe taxi cho P rồi đưa P sang lán của C ở Trung Quốc. Tại đây C trực tiếp trông P đến cuối tháng 6/2020 C bán P cho Đặng Hải Tân với giá 13.000CNY (mười ba nghìn Nhân dân tệ) nhưng Đặng Hải Tân chưa trả tiền cho C.

Sau khi bị Sùng A C bán cho Đặng Hải Tân, Vừ Thị P tiếp tục bị bán cho người Trung Quốc mua làm vợ. Đến tháng 9/2020 được Công an Trung Quốc giải cứu và trao trả về Việt Nam qua Cửa khẩu Ma Lù Thàng, tỉnh Lai Châu. Tại thời điểm bị đưa sang Trung Quốc bán, Vừ Thị P đã trên 16 tuổi.

Trong vụ này, Sùng A C là người thực hành (trực tiếp dụ dỗ, lừa gạt và bán bị hại Vừ Thị P).

Vụ thứ mười hai: Khoảng đầu tháng 03/2020, qua mạng xã hội Facebook, Sùng A C quen biết với Giàng Thị C (sinh năm 2000, đăng ký HKTT tại bản Ngu Hấu, xã Nà Nghịu, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La). Khi quen nhau, C nói dối tên Lý A Tú, đang làm việc ở Sa Pa - Lào Ci; C tán tỉnh, yêu đương và rủ C về làm vợ, C đồng ý. Sau đó, C vờ hỏi xin số điện thoại của người phụ nữ khác cho bạn của C làm quen, C không nghi ngờ và đã cho C số điện thoại của Giàng Thị Đơ (sinh năm 2004, là em gái ruột của C). C liền gọi điện làm quen Đơ, nói dối tên Páo, là bạn và đang làm việc ở Sa Pa cùng Tú và tán tỉnh, yêu đương dụ dỗ Đơ về làm vợ. Đơ tin tưởng và đồng ý.

Ngày 21/3/2020, C, Đơ gọi điện thông báo sẽ lên làm vợ của C nên C đã liên hệ một xe taxi (không xác định được đặc điểm xe) đến xã Nà Nghịu, huyện Sông Mã đón C và Đơ đưa lên thành phố Lào Ci. Trong khi đó, C gọi điện thông báo cho Đặng Hải Tân sắp xếp người đón C, Đơ từ thành phố Lào Ci sang Trung Quốc. Sau đó, C cùng Tân đi 02 xe máy đến khu vực biên giới Việt Nam - Trung Quốc đón C, Đơ về lán của C. Tại đây, C trực tiếp trông giữ Đơ, còn Tân trông giữ C. Trong thời gian trông giữ Đơ, C đã có hành vi giao cấu với Đơ và sử dụng điện thoại, Ipad của C ghi hình lại. Khoảng một tuần sau, C bán Giàng Thị C cho Pằng được 15.000CNY (mười năm nghìn Nhân dân tệ) rồi chia cho Đặng Hải Tân 2.000CNY (hai nghìn Nhân dân tệ) tiền công trông giữ C. Còn lại C giữ để chi tiêu.

Sau khi bị C bán sâu vào nội địa Trung Quốc, Giàng Thị C được Công an Trung Quốc giải cứu và trao trả về Việt Nam qua đường Cửa khẩu Quốc tế Lào Ci ngày 01/4/2021. Tại thời điểm bị đưa sang Trung Quốc bán, Giàng Thị C đã được 19 tuổi. Tại Kết luận giám định số 190, ngày 25/9/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Lào Ci, Giàng Thị Đơ có độ tuổi từ 16 đến 17 tuổi cộng trừ 03 tháng. Căn cứ vào khoản 3 Điều 6 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT- VKSNDTC-TANDTC-BC-BTP-BLĐTBXH thì tại thời điểm bị đưa sang Trung Quốc để bán, người bị hại Giàng Thị Đơ là người dưới 16 tuổi.

Trong vụ này, Sùng A C là người thực hành (trực tiếp dụ dỗ, lừa gạt Các bị hại Đơ, C sang Trung Quốc, cùng đối tượng Đặng Hải Tân trông giữ Các bị hại và trực tiếp bán bị hại Giàng Thị C cho đối tượng Trung Quốc).

Vụ thứ mười ba: Đầu tháng 5/2020, Thào Seo Áo cùng Ly Seo P đi làm thuê tại tỉnh Sơn La. Do không chịu được vất vả nên ngày 08/5/2020 Áo, P đi xe ô tô khách để về Lào Ci. Do đi cùng chuyến xe khách với Lù Thị Số (sinh ngày 18/7/1995, cư trú tại bản Làng Chếu, xã Làng Chếu, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La) và Sồng Thị Nu (sinh ngày 08/9/1989, cư trú tại bản Xím Vàng, xã Xím Vàng, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La) Áo, P đã nghe được nội dung Nu, Số nói chuyện điện thoại với người khác nên nghi ngờ Nu, Số đang bị dụ dỗ, lừa gạt đưa sang Trung Quốc bán. Do quen từ trước và biết Sùng A C là đối tượng mua bán người ở Trung Quốc nên Áo bảo P gọi điện cho Sùng A C hỏi có phải C đang dụ dỗ, lừa gạt Sồng Thị Nu và Lù Thị Số sang Trung Quốc hay không, C nói không phải. C bảo Áo tìm Cách dụ dỗ Nu, Số đưa sang Trung Quốc cho C mang đi bán, C sẽ chia cho 5.000CNY (năm nghìn Nhân dân tệ). Áo đồng ý và thống nhất với Ly Seo P theo nội dung đã bàn bạc cùng C. Lúc này có một người đàn ông không quen biết đi xe máy đến đón Nu, Số, Áo và P liền dọa người này là sẽ báo Công an nên người này bỏ đi. Sau đó, Áo gọi điện cho C và đưa điện thoại cho Số nghe. Thông qua điện thoại C dụ dỗ Nu, Số đi cùng Áo với P đến nhà C ở Lào Ci, Cách đó khoảng chục cây số để làm thuê lấy tiền đi về nhà, lúc nghe điện thoại Số có mở loa ngoài nên Nu cũng nghe được nội dung C dụ dỗ. Nu và Số không nghi ngờ và đồng ý. C liền bảo Áo cùng P đưa Nu, Số đến lán của C ở Trung Quốc. Sau đó, C gửi số điện thoại của P cho Đặng Hải Tân và bảo Tân đi đón Áo, P, Nu, Số. Sau đó, cả bốn được xe ôm do Tân sắp xếp đưa sang Trung Quốc và đi đường rừng ra vị trí Tân hẹn đón. Trên đường đi, Lù Thị Số đã sử dụng điện thoại chụp được ảnh của P và Áo gửi về cho người nhà.

Sau khi đưa được Nu và Số đến lán, C người nhà của của Số gửi ảnh mà Số đã chụp nên biết là việc lừa đưa Nu, Số sang Trung Quốc đã bị lộ nên không dám bán Nu, Số nữa. C cho Nu, Số ở lại lán của C được khoảng một tuần rồi đưa cho P 1.400.000 đồng để P đưa Nu, Số về Việt Nam. P đã đưa Nu, Số ra đường biên giới đoạn giáp với thôn Nậm Sò, xã Bản Phiệt, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Ci và đưa cho Nu, Số 1.400.000 đồng để tự đi về nhà. Tại thời điểm bị đưa sang Trung Quốc để bán, người bị hại Lù Thị Số và Sồng Thị Nu đều đã trên 16 tuổi.

Trong vụ này, Sùng A C là người khởi xướng, xúi giục Thào Seo Áo và Ly Seo P lừa gạt Các bị hại đưa sang lán của C thuê nhằm mục đích bán cho người Trung Quốc nên phải chịu trách nhiệm chính trong vụ án. Thào Seo Áo và Ly Seo P giữ vai trò là người thực hành (cùng C lừa gạt Các bị hại, đưa Các bị hại sang Trung Quốc để bán).

Sau khi Ly Seo P đưa Nu, Số quay về Việt Nam, Sùng A C bảo Thào Seo Áo ở lại để làm việc trông chuối, chăn nuôi cùng với C, C sẽ nuôi ăn, ở nên Áo đồng ý. Đến cuối tháng 6, đầu tháng 7/2020, do bị Công an Trung Quốc truy bắt nên ngày 02/7/2020, C đã đưa Giàng Thị Đơ và cùng Thào Seo H, Thào Seo Áo vượt biên trái phép về Vịệt Nam rồi thuê Giàng Seo Sếnh, sinh năm 1983; Giàng Seo Quáng, sinh năm 1985; Giàng Seo Mành, sinh năm 1990 cùng trú tại thôn Nậm Sò, xã Bản Phiệt, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Ci chở để tiếp tục bỏ trốn thì bị Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Lào Ci bắt giữ.

Vụ thứ mười bốn: Đầu năm 2017, Sùng A C được Lý A Sử cho mượn một chiếc xe ô tô loại 05 chỗ (không xác định được đặc điểm cụ thể) để đi lại với điều kiện C phải đi đón người cho Sử khi Sử yêu cầu, mọi chi phí sửa chữa xe sẽ Sử chi trả (do trước đó C được Sử thuê làm lái xe đón khách cho Sử nhưng do Sử trả lương thấp nên C không làm nữa).

Khoảng đầu tháng 3/2018, Lý A Sử gọi điện thoại bảo C dùng xe ô tô đi đón 02 người phụ nữ đưa về lán của C để trông giữ cho Sử. C đồng ý và đi xe ô tô đến một vị trí Các lán của C khoảng 02 km thì gặp hai người đàn ông đi hai xe máy chở Vàng Thị Cúc (sinh ngày 19/3/2003) và Hảng Thị Súng (sinh ngày 04/01/2002 cùng đăng ký HKTT tại thôn Khởi Xá Trong, xã Bảo Nhai, huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Ci) đến. Lúc này Lý A Sử gọi điện dặn C phải trông giữ cẩn thận vì Sử đã trả tiền cho người ta, C đồng ý rồi dùng xe ô tô chở Cúc, Súng lên lán của C và trực tiếp trông giữ Hảng Thị Súng còn Vàng Thị Cúc được một người đàn ông Trung Quốc (không rõ nhân thân, lai lịch) do Lý A Sử cử đến trông giữ. Khoảng 03 ngày sau, theo sự chỉ đạo của Sử, C đưa Vàng Thị Cúc giao cho Lý A Sử tại vị trí Cách lán của C khoảng 01 km để Sử đưa Cúc đi bán vào nội địa Trung Quốc. Sau khi Cúc bị bán được khoảng 02 đến 03 ngày, Sùng A C cùng đồng bọn dụ dỗ, lừa gạt được Thào Thị L và Ma T (Đã nêu ở vụ thứ nhất) để trông giữ chờ đưa đi bán cùng với Hảng Thị Súng. Khoảng một tuần sau, Lý A Sử tiếp tục đến đón Hảng Thị Súng đưa đi bán.

Sau khi bị dụ dỗ, lừa gạt đưa sang Trung Quốc bán, Hảng Thị Súng đã chạy trốn được về Việt Nam vào ngày 08/3/2019, đến tháng 01/2020, Hảng Thị Súng đã bỏ sang Trung Quốc lấy chồng và sinh sống tại Trung Quốc đến nay nhưng không xác định được địa chỉ cụ thể của Súng. Đối với Vàng Thị Cúc, sau khi bị bán sâu vào nội địa Trung Quốc, Vàng Thị Cúc đã được Công an Trung Quốc giải cứu và trao trả về Việt Nam qua Cửa khẩu Thanh Thủy - Hà Giang vào tháng 6/2018 song không trình báo. Tại thời điểm bị lừa bán, Vàng Thị Cúc 14 tuổi 11 tháng 11 ngày; Hảng Thị Súng được 16 tuổi 01 tháng 26 ngày.

Các bị hại khai: Đầu tháng 03/2018, qua điện thoại Cúc, Súng được một người đàn ông tự giới thiệu tên là Lâu, làm Công an ở khu vực Cửa khẩu Quốc tế Lào Ci làm quen. Lâu nói nếu Cúc, Súng đồng ý đến gặp và ăn rằm tháng Riêng cùng Lâu thì Lau sẽ tạo điều kiện giúp đỡ bố mẹ Cúc, Súng đang làm thuê bên Trung Quốc. Do tin tưởng Lâu là công an thật nên đồng ý đi gặp Lâu. Lâu dặn Cúc, Súng đi đến ngã ba Bản Phiệt, xã Bản Phiệt, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Ci sẽ có người đón. Ngày 02/3/2018 (ngày 15/01/2018 âm lịch), Cúc điều khiển xe máy biển số 24HB - 053.20 chở Súng đến ngã ba Bản Phiệt rồi thông tin cho Lâu biết. Sau đó, có một người đàn ông giới thiệu là người nhà của Lâu (không xác định được nhân thân, lai lịch) đi xe máy đến đón. Cúc, Súng gửi xe máy lại một gia đình gần đó (hiện Cúc không xác định được vị trí cụ thể) rồi được người đàn ông này đưa sang Trung Quốc qua đường thuộc thôn Nậm Sò, xã Bản Phiệt, huyện Bảo Thắng. Sau đó người này giao Cúc, Súng cho hai người đàn ông đi hai xe máy tiếp tục chở đến gặp Sùng A C đi ô tô đến đón về lán C đang ở sau đó bị C đưa đi bán.

Về số tiền có được từ việc dụ dỗ, lừa gạt Các bị hại trên đưa sang Trung Quốc bán, Sùng A C Sùng A C được số tiền 78.500CNY (bảy mươi tám nghìn Nhân dân tệ), Chang A V được số tiền 39.000CNY (ba mươi chín nghìn Nhân dân tệ), Sùng A T được số tiền 13.500CNY (mười ba nghìn năm trăm Nhân dân tệ), Chang A L được số tiền 13.500CNY (mười ba nghìn năm trăm Nhân dân tệ). Tuy nhiên Các bị Cáo đã chi tiêu hết số tiền trên. Đối với Thào Seo H được số tiền 62.500CNY (sáu mươi hai nghìn năm trăm Nhân dân tệ), đã chi tiêu chỉ còn 4.382CNY (bốn nghìn ba trăm tám mươi hai Nhân dân tệ). Khi bỏ trốn từ Trung Quốc về Việt Nam, Thào Seo H cầm theo số tiền này đưa cho anh Giàng Seo Sếnh, sinh năm 1983, cư trú tại thôn Nậm Sò, xã Bản Phiệt, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Ci giúp đổi ra tiền Việt Nam, nhưng chưa kịp nhận lại tiền từ anh Giàng Seo Sếnh thì H đã bị bắt. Sau đó anh Giàng Seo Sếnh đã giao nộp lại số tiền này cho Cơ quan điều tra.

Cáo trạng số 28/CT- VKST-P2 ngày 31/5/ 2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Ci truy tố Bị Cáo Sùng A C về tội Mua bán người và Mua bán người dưới 16 tuổi quy định tại điểm a, đ khoản 3 Điều 150 và điểm b, e khoản 3 Điều 151 Bộ luật Hình sự.

Bị Cáo Chang A V về tội Mua bán người và Mua bán người dưới 16 tuổi quy định tại điểm d, e khoản 2 Điều 150 và điểm c, đ khoản 2 Điều 151 Bộ luật Hình sự.

Bị Cáo Thào Seo H về tội Mua bán người và Mua bán người dưới 16 tuổi quy định tại điểm d, e khoản 2 Điều 150 và điểm đ khoản 2 Điều 151 Bộ luật Hình sự.

Bị Cáo Sùng A T về tội Mua bán người và Mua bán người dưới 16 tuổi quy định tại điểm d khoản 2 Điều 150 và điểm đ khoản 2 Điều 151 Bộ luật Hình sự.

Bị Cáo Chang A L về tội Mua bán người dưới 16 tuổi quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 151 Bộ luật Hình sự.

Bị Cáo Thào Seo Áo về tội Mua bán người quy định tại điểm d, đ khoản 2 Điều 150 Bộ luật Hình sự.

Bị Cáo Ly Seo P về tội Mua bán người, quy định tại điểm d, đ khoản 2 Điều 150 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Các bị Cáo Sùng A C, Chang A V, Sùng A T, Chang A L, Thào Seo Áo, Ly Seo P đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội như nội dung vụ án đã tóm tắt ở trên và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt. Riêng bị Cáo Thào Seo H không thừa nhận có tham gia vào việc trông giữ bị hại Thào Thị L.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Ci giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Tuyên bố Các bị Cáo Sùng A C, Chang A V, Thào Seo H, Sùng A T phạm tội “Mua bán người” và “Mua bán người dưới 16 tuổi” Tuyên bố Các bị Cáo Thào Seo Áo, Ly Seo P phạm tội “Mua bán người”. Tuyên bố bị Cáo Chang A L phạm tội “Mua bán người dưới 16 tuổi”.

2. Áp dụng điểm a, đ khoản 3 Điều 150; điểm b, e khoản 3 Điều 151; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị Cáo Sùng A C 13 - 15 năm tù về tội “Mua bán người”. Tù chung thân về tội “ Mua bán người dưới 16 tuổi”. Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội.

Áp dụng điểm d, đ, e khoản 2 Điều 150; điểm c, đ, e khoản 2 Điều 151; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự: xử phạt bị Cáo Chang A V 09 - 10 năm tù về tội: “ Mua bán người”. Xử phạt 14 - 16 năm tù về tội : “ Mua bán người dưới 16 tuổi”. Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội.

Áp dụng điểm d, đ, e khoản 2 Điều 150; điểm đ khoản 2 Điều 151; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự: xử phạt bị Cáo Thào Seo H 10 – 12 năm tù về tội: “ Mua bán người”. Xử phạt 12 - 14 năm tù về tội: “ Mua bán người dưới 16 tuổi”. Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 150; điểm đ khoản 2 Điều 151; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị Cáo Sùng A T 8 - 9 năm tù về tội:” Mua bán người”; Xử phạt 12 - 13 năm tù về tội “ Mua bán người dưới 16 tuổi”. Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 151; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị Cáo Chang A L 12 - 13 năm tù về tội mua bán người về tội ” Mua bán người dưới 16 tuổi” .

Áp dụng điểm d, đ khoản 2 Điều 150; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự: xử phạt bị Cáo Thào Seo Áo 09 - 10 năm tù về tội “Mua bán người”.

Áp dụng điểm d, đ khoản 2 Điều 150; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị Cáo Ly Seo P 09 - 10 năm tù về tội “ Mua bán người”.

Giải quyết trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí, tuyên quyền kháng Cáo theo quy định.

Người bào chữa cho bị Cáo Sùng A C trình bày quan điểm bào chữa: Nhất trí với quan điểm của Viện kiểm sát về tội danh và điều luật áp dụng. Về hình phạt, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị Cáo Sùng A C từ 13- 14 năm tù về tội “Mua bán người”; từ 19- 20 năm tù về tội “Mua bán người dưới 16 tuổi”.

Người bào chữa cho bị Cáo Chang A V và Thào Seo H trình bày quan điểm bào chữa: Nhất trí với quan điểm của Viện kiểm sát về tội danh và điều luật áp dụng đối với bị Cáo Chang A V. Về hình phạt, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị Cáo Chang A V 09 năm tù về tội “Mua bán người”; 14 năm tù về tội “Mua bán người dưới 16 tuổi”. Về vật chứng, trả lại cho vợ bị Cáo V là chị Mùa Thị Mỷ ½ giá trị chiếc xe ô tô, nhãn hiệu KIA, số loại MORNING, màu trắng, biển số: 25A - 013.25.

Đối với bị Cáo Thào Seo H, người bào chữa cho rằng bị Cáo H chỉ phạm tội “Mua bán người” vì đã tham gia lừa bán, trông giữ Các bị hại Lý Thị Đ, Giàng Thị D, Hạng Thị T, Lý Thị Mảy, Lý Thị Súa đều là người trên 16 tuổi. Riêng đối với bị hại Thào Thị L, H chỉ có nhiệm vụ nấu cơm cho mọi người trong lán, C không giao cho H trông giữ L. Vì vậy, người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị Cáo Thào Seo H 12 năm tù về tội “Mua bán người” và tuyên bố bị Cáo H không phạm tội “Mua bán người dưới 16 tuổi”.

Người bào chữa cho bị Cáo Sùng A T trình bày quan điểm bào chữa: Nhất trí với quan điểm của Viện kiểm sát về tội danh và điều luật áp dụng. Về hình phạt, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị Cáo Sùng A T 06 năm tù về tội “Mua bán người”; 08 năm tù về tội “Mua bán người dưới 16 tuổi”.

Người bào chữa cho bị Cáo Chang A L trình bày quan điểm bào chữa: Nhất trí với quan điểm của Viện kiểm sát về tội danh và điều luật áp dụng. Về hình phạt, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị Cáo Chang A L 10 năm tù về tội “Mua bán người dưới 16 tuổi”.

Người bào chữa cho bị Cáo Thào Seo Áo, Ly Seo P trình bày quan điểm bào chữa: Nhất trí với quan điểm của Viện kiểm sát về tội danh. Về điều luật, đề nghị áp dụng thêm quy định tại điều 15, 57 Bộ luật hình sự về phạm tội chưa đạt và xử phạt bị Cáo Thào Seo Áo 07 năm tù về tội “Mua bán người”, xử phạt bị Cáo Ly Seo P 06 năm tù về tội “Mua bán người” Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Các bị hại Giàng Thị Sua, Lý Thị Súa, Sùng Thị Nga bà La Thị Huyền Trang trình bày ý kiến: Nhất trí với tội danh, điều luật áp dụng và mức hình phạt do đại diện Viện kiểm sát đề xuất đối với Các bị Cáo. Về trách nhiệm dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử buộc Các bị Cáo phải liên đới bồi thường tiền tổn thất về tinh thần cho Các bị hại và tiền công tìm kiếm cho gia đình Các bị hại theo quy định của pháp luật.

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Các bị hại ông Tạ Ngọc Vân trình bày ý kiến: Nhất trí với đề xuất của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng và mức hình phạt đối với Các bị Cáo. Về trách nhiệm dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử buộc Các bị Cáo phải liên đới bồi thường Các bị hại và gia đình bị hại theo quy định của pháp luật.

Không nhất trí với ý kiến của người bào chữa cho rằng bị Cáo Thào Seo H không phạm tội mua bán người dưới 16 tuổi và ý kiến đề nghị áp dụng điều luật về phạm tội chưa đật đối với bị Cáo Thào Seo Áo và Ly Seo P.

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại Vàng Thị C, Giàng Thị S, Giàng Thị Đơ ông Nguyễn Xuân Tuyền và người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại Thào Thị Mẩy ông Phan Văn Nhật: vắng mặt tại phiên tòa và gửi bản luận cứ bảo vệ với nội dung, đề nghị xử lý nghiêm minh Các bị Cáo theo quy định của pháp luật. Về trách nhiệm dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử buộc Các bị Cáo phải liên đới bồi thường cho bị hại và gia đình bị hại theo quy định của pháp luật.

Các bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nhất trí với quan điểm bảo vệ của những người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào Các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án đều thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tại phiên tòa Các bị Cáo không có ý kiến gì về vấn đề này. Do đó Hội đồng xét xử xác định Các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng, người bào chữa đều hợp pháp.

[2] Về tội danh:

Tại phiên tòa, bị Cáo Thào Seo H thừa nhận tham gia vào việc lừa bán và trông giữ 05 bị hại trên 16 tuổi. Riêng đối với bị hại Thào Thị L, bị Cáo H cho rằng Sùng A C không giao cho H trông giữ bị hại Thào Thị L khi C không có ở lán, bị Cáo chỉ nấu cơm cho mọi người trong lán ăn, bị Cáo không tham gia vào việc mua bán Thào Thị L nên không phạm tội “Mua bán người dưới 16 tuổi”.

Hội đồng xét xử xét thấy, trong Các biên bản ghi lời khai tại giai đoạn điều tra, bị Cáo H đều khai nhận Sùng A C đã giao cho bị Cáo trông giữ Thào Thị L và một số bị hại khác trong thời gian chờ đưa đi bán cho người Trung Quốc. Nhiệm vụ của bị Cáo là nấu ăn cho mọi người trong lán và trông giữ không cho Các bị hại chạy trốn khỏi khu vực lán. Lời khai của bị hại Thào Thị L cũng khẳng định, bị Cáo H là người nấu cơm và trông giữ Các bị hại. Như vậy, đủ căn cứ để xác định bị Cáo Thào Seo H là đồng phạm với bị Cáo Sùng A C với vai trò là người giúp sức trông giữ bị hại Thào Thị L.

Các bị Cáo Sùng A C, Chang A V, Sùng A T, Chang A L, Thào Seo Áo, Ly Seo P đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của Các bị Cáo phù hợp với lời khai của Các bị Cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của Các bị hại và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận:

Trong khoảng thời gian từ tháng 02/2008 đến tháng 05/2020, Các bị Cáo Sùng A C, Chang A V, Thào Seo H, Sùng A T, Chang A L, Thào Seo Áo, Ly Seo P đã thực hiện hành vi lừa 23 bị hại tại Các tỉnh Lào Ci, Yên Bái, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Bắc Kạn đưa sang Trung Quốc bán với giá từ 12.000 CNY đến 20.000 CNY/người. Tại thời điểm bị lừa bán, có 14 bị hại từ đủ 16 tuổi trở lên và 09 bị hại dưới 16 tuổi.

Từ những phân tích trên khẳng định, Cáo trạng số 28/CT- VKST-P2 ngày 31/5/ 2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Ci truy tố bị Cáo Sùng A C về tội “Mua bán người” và “Mua bán người dưới 16 tuổi” quy định tại điểm a, đ khoản 3 Điều 150 và điểm b, e khoản 3 Điều 151 Bộ luật Hình sự. Bị Cáo Chang A V về tội “Mua bán người” và “Mua bán người dưới 16 tuổi” quy định tại điểm d, đ, e khoản 2 Điều 150 và điểm c, đ, e khoản 2 Điều 151 Bộ luật Hình sự. Bị Cáo Thào Seo H về tội “Mua bán người” và “Mua bán người dưới 16 tuổi” quy định tại điểm d, đ, e khoản 2 Điều 150 và điểm đ khoản 2 Điều 151 Bộ luật Hình sự. Bị Cáo Sùng A T về tội “Mua bán người” và “Mua bán người dưới 16 tuổi” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 150 và điểm đ khoản 2 Điều 151 Bộ luật Hình sự. Bị Cáo Chang A L về tội “Mua bán người dưới 16 tuổi” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 151 Bộ luật Hình sự. Bị Cáo Thào Seo Áo về tội “Mua bán người” quy định tại điểm d, đ khoản 2 Điều 150 Bộ luật Hình sự. Bị Cáo Ly Seo P về tội “Mua bán người” quy định tại điểm d, đ khoản 2 Điều 150 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về hình phạt:

Các bị Cáo Sùng A C, Chang A V, Thào Seo H, Sùng A T, Thào Seo Áo, Ly Seo P, Chang A L là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự nhưng do lười lao động, thích hưởng thụ, muốn kiếm tiền bất chính nên đã lợi dụng sự nhẹ dạ, cả tin của Các bị hại, thực hiện hành vi dụ dỗ, lừa gạt Các bị hại đưa sang Trung Quốc bán. Hành vi phạm tội của Các bị Cáo là đặc biệt nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của con người, cáoi con người như hàng hóa để mua bán, gây mất trật tự trị an ở địa phương nên cần xử lý Các bị Cáo thật nghiêm khắc để bảo đảm tính răn đe, giáo dục đối với Các bị Cáo và đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.

[3.1] Về vai trò của Các bị Cáo Đây là vụ án đồng phạm, vai trò của Các bị Cáo được đánh giá như sau:

Bị Cáo Sùng A C giữ vai trò chính trong vụ án là người khởi xướng, vừa là người thực hành trong việc thực hiện hành vi phạm tội đối với 22 bị hại, trong đó có 13 bị hại trên 16 tuổi gồm: Hảng Thị Súng, Vàng Thị Đ, Sùng Thị N, Giàng Thị C, Lù Thị Số, Sồng Thị Nu, Vừ Thị P, Lý Thị Đ, Giàng Thị D, Sùng Thị Nga, Lý Thị Súa, Hạng Thị T, Lý Thị Mảy và 09 bị hại dưới 16 tuổi gồm: Vàng Thị Cúc, Thào Thị L, Ma T, Thào Thị Mẩy, Thào Thị Giàng, Giàng Thị Đơ, Vàng Thị C, Giàng Thị S và Giàng Thị Sua.

Bị Cáo Chang A V vừa là người thực hành, dụ dỗ lừa gạt và bán Các bị hại, vừa là người xúi giục và giúp sức cho đồng phạm khác trong 03 vụ với 06 bị hại, trong đó có 03 bị hại là người trên 16 tuổi, gồm Vàng Thị Đ, Giàng Thị C, Sùng Thị Nga và 03 bị hại là người dưới 16 tuổi, gồm Vàng Thị C, Giàng Thị S, Giàng Thị Sua.

Bị Cáo Thào Seo H vừa là người thực hành, trực tiếp dụ dỗ lừa bán Các bị hại, vừa là người giúp sức cho đồng phạm khác trong 05 vụ với 06 bị hại, trong đó có 05 người bị hại là người trên 16 tuổi, gồm Lý Thị Đ, Giàng Thị D, Hạng Thị T, Lý Thị Mảy, Lý Thị Súa và 01 bị hại là người dưới 16 tuổi là Thào Thị L.

Bị Cáo Sùng A T là người thực hành, trực tiếp dụ dỗ và lừa bán 02 bị hại, trong đó có 01 bị hại dưới 16 tuổi là Giàng Thị Sua và 01 bị hại trên 16 tuổi là Vàng Thị Đ.

Bị Cáo Chang A L là người thực hành, trực tiếp lừa bán 01 bị hại dưới 16 tuổi là Giàng Thị S.

Bị Cáo Thào Seo Áo và Ly Se P là người thực hành, dụ dỗ lừa 02 bị hại trên 16 tuổi là Lù Thị Số và Sồng Thị Nu.

[3.2] Về nhân thân: Các bị Cáo đều có nhân thân tốt, trước khi phạm tội chưa có tiền án, tiền sự.

[3.3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị Cáo Sùng A C phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” theo điểm g khoản 1 điều 52 Bộ luật Hình sự. Các bị Cáo còn lại không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[3.4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, Các bị Cáo thành khẩn khai báo nên được áp dụng quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Sau khi phạm tội, bị Cáo Ly Seo P đã ra đầu thú nên cần áp dụng quy định tại Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một P hình phạt cho bị Cáo.

Đối với bị Cáo Thào Seo Áo và Ly Seo P, Các bị Cáo lừa đưa bị hại Lù Thị Số và Sồng Thị Nu sang Trung Quốc với mục đích để bán nhưng do sợ bị phát hiện nên Các bị Cáo đã cho hai bị hại trở về Việt Nam. Vì vậy, hành vi phạm tội của Áo và P thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt, cần áp dụng quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt theo Điều 15, Điều 57 Bộ luật hình sự để quyết định hình phạt đối với bị Cáo Áo và P.

[3.4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy Các bị Cáo không có điều kiện về kinh tế nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[4] Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại Thào Thị L yêu cầu Các bị Cáo phải bồi thường 50.000.000 đồng tiền bù đắp tổn thất tinh thần. Ông Thào Dìn là bố của bị hại Thào Thị L yêu cầu Các bị Cáo phải bồi thường 20.000.000 đồng chi phí tìm kiếm bị hại, tổng cộng là 70.000.000 đồng.

Đại điện hợp pháp của bị hại Ma T là ông Ma Chẩn yêu cầu Các bị Cáo phải bồi thường 50.000.000 đồng tiền bù đắp tổn thất tinh thần và 30.000.000 đồng tiền chi phí tìm kiếm bị hại, tổng cộng là 80.000.000 đồng.

Đại diện hợp pháp của bị hại Vàng Thị C anh Vàng A Phong yêu cầu Các bị Cáo phải bồi thường 100.000.000 đồng tiền bù đắp tổn thất về tinh thần và 15.000.000 đồng chi phí tìm kiếm bị hại, tổng cộng là 115.000.000 đồng.

Đại diện hợp pháp của bị hại Giàng Thị S là ông Giàng A Chua yêu cầu Các bị Cáo phải bồi thường 30.000.000 đồng tiền chi phí tìm kiếm bị hại và 100.000.000 đồng tiền bù đắp tổn thất tinh thần, tổng cộng là 130.000.000 đồng.

Bị hại Vàng Thị Đ yêu cầu Các bị Cáo phải bồi thường 120.000.000 đồng tiền bù đắp tổn thất tinh thần. Đại diện hợp pháp của bị hại Vàng Thị Đ ông Vàng A Chứ yêu cầu Các bị Cáo phải bồi thường 20.000.000 đồng tiền chi phí đi tìm bị hại, tổng cộng là 140.000.000 đồng.

Bị hại Thào Thị Mẩy yêu cầu bị Cáo Sùng A C phải bồi thường 100.000.000 đồng tiền bù đắp tổn thất tinh thần. Đại diện hợp pháp của bị hại Thào Thị Mẩy ông Thào A Phử yêu cầu bị Cáo Sùng A C phải bồi thường 40.000.000 đồng tiền chi phí tìm kiếm bị hại, tổng cộng là 140.000.000 đồng.

Đại diện hợp pháp của bị hại Thào Thị Giàng anh Thào A Phừ yêu cầu bị Cáo Sùng A C phải bồi thường tiền bù đắp tổn thất tinh thần và tiền chi phí tìm kiếm bị hại tổng cộng là 20.000.000 đồng.

Bị hại Giàng Thị D yêu cầu Các bị Cáo phải bồi thường tiền bù đắp tổn thất tinh thần là 20.000.000 đồng.

Bị hại Lý Thị Đ yêu cầu Các bị Cáo phải bồi thường 30.000.000 đồng tiền bù đắp tổn thất tinh thần.

Bị hại Giàng Thị C yêu cầu Các bị Cáo phải bồi thường 50.000.000 đồng tiền bù đắp tổn thất tinh thần.

Đại diện hợp pháp của bị hại Sùng Thị Nga ông Sùng A Khai yêu cầu Các bị Cáo phải bồi thường 21.500.000 đồng tiền chi phí tìm kiếm bị hại và 60.000.000 đồng tiền bù đắp tổn thất tinh thần, tổng cộng là 81.500.000 đồng.

Đại diện hợp pháp của bị hại Giàng Thị Sua ông Giàng Thào Páo yêu cầu Các bị Cáo phải bồi thường tiền bù đắp tổn thất tinh thần và chi phí tìm kiếm bị hại tổng số tiền là 100.000.000 đồng.

Đại diện hợp pháp của bị hại Lý Thị Mảy ông Lý A Mang yêu cầu Các bị Cáo phải bồi thường 100.000.000 đồng tiền bù đắp tổn thất tinh thần và 10.000.000 đồng tiền chi phí tìm kiếm bị hại, tổng cộng là 110.000.000 đồng.

Bị hại Lý Thị Súa yêu cầu Các bị Cáo phải bồi thường 60.000.000 đồng tiền bù đắp tổn thất tinh thần. Đại diện hợp pháp của bị hại Lý Thị Súa ông Lý A Ký yêu cầu Các bị Cáo bồi thường 6.000.000 đồng tiền chi phí tìm kiếm bị hại. Tổng cộng là 66.000.000 đồng.

Đại diện hợp pháp của bị hại Sùng Thị N ông Sùng A Cháng yêu cầu Các bị Cáo bồi thường 200.000.000 đồng.

Đại diện hợp pháp của bị hại Hạng Thị T ông Hạng A Hờ yêu cầu Các bị Cáo phải bồi thường tổng số tiền là 20.000.000 đồng.

Bị hại Vừ Thị P và gia đình bị hại không yêu cầu Các bị Cáo bồi thường nên không xem xét giải quyết là phù hợp.

Đại diện hợp pháp của bị hại Giàng Thị C và Giàng Thị Đơ bà Vừ Thị Dê yêu cầu Các bị Cáo phải bồi thường 20.000.000 đồng tiền chi phí tìm kiếm Các bị hại và tiền bù đắp tổn thất tinh thần cho bị hại Giàng Thị C, Giàng Thị Đơ mỗi bị hại là 50.000.000 đồng, tổng cộng 120.000.000 đồng.

Bị hại Lù Thị Số yêu cầu Các bị Cáo phải bồi thường 15.000.000 đồng tiền bù đắp tổn thất tinh thần. Đại diện hợp pháp của bị hại Lù Thị Số anh Lù A Chính yêu cầu Các bị Cáo bồi thường tiền chi phí tìm kiếm bị hại là 6.000.000 đồng. Tổng cộng 21.000.000 đồng.

Bị hại Sồng Thị Nu yêu cầu Các bị Cáo phải bồi thường 15.000.000 đồng tiền bù đắp tổn thất tinh thần. Đại diện hợp pháp của bị hại Sồng Thị Nu ông Sồng A Dê yêu cầu Các bị Cáo bồi thường tiền chi phí tìm kiếm bị hại là 6.000.000 đồng. Tổng cộng 21.000.000 đồng.

Bị hại Vàng Thị Cúc yêu cầu bị Cáo Sùng A C phải bồi thường 50.000.000 đồng tiền bù đắp tổn thất tinh thần. Đại diện hợp pháp của bị hại Vàng Thị Cúc ông Vàng Seo Páo yêu cầu bị Cáo Sùng A C phải bồi thường tổng số tiền 90.920.000 đồng, tổng cộng là 140.920.000 đồng.

Đại diện hợp pháp của bị hại Hảng Thị Súng ông Hảng Seo Páo yêu cầu bị Cáo Sùng A C phải bồi thường 32.000.000 đồng tiền chi phí tìm kiếm bị hại và 50.000.000 đồng tiền bù đắp tổn thất tinh thần, tổng cộng là 82.000.000 đồng.

Tại phiên tòa, Các bị Cáo đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết vấn đề bồi thường dân sự theo quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy, yêu cầu bồi thường của Các bị hại và đại diện hợp pháp của Các bị hại là chính đáng. Tuy nhiên, số tiền yêu cầu của một số bị hại và đại diện bị hại là Cáo so với quy định của pháp luật và mức sống tại địa phương. Vì vậy, Hội đồng xét xử chỉ chấp nhận P yêu cầu phù hợp với quy định và Các chi phí hợp lý phù hợp với thực tế.

Bị hại Lý Thị Mảy, Sùng Thị N và Hạng Thị T hiện nay chưa trở về địa phương. Tuy nhiên tính đến thời điểm mở phiên tòa, Các bị hại đều đã trên 18 tuổi. Do đó, Hội đồng xét xử chỉ chấp nhận yêu cầu bồi thường tiền chi phí tìm kiếm của gia đình bị hại. Đối với yêu cầu bồi thường tiền bù đắp tổn thất tinh thần, khi ba bị hại trở về nếu có yêu cầu sẽ giải quyết sau.

Cụ thể cần chấp nhận yêu cầu bồi thường của Các bị hại và gia đình bị hại như sau:

Buộc bị Cáo Sùng A C và bị Cáo Thào Seo H phải liên đới bồi thường cho bị hại Thào Thị L 14.000.000 đồng tiền bù đắp tổn thất tinh thần và bồi thường cho ông Thào Dìn 6.000.000 đồng tiền chi phí tìm kiếm bị hại. Tổng cộng là 20.000.000 đồng, P của mỗi bị Cáo là 10.000.000 đồng.

Buộc bị Cáo Sùng A C phải bồi thường cho bị hại Ma T 14.000.000 đồng tiền bù đắp tổn thất tinh thần và bồi thường cho ông Ma Chẩn 6.000.000 đồng tiền chi phí tìm kiếm bị hại. Tổng cộng là 20.000.000 đồng.

Buộc bị Cáo Sùng A C và Chang A V phải liên đới bồi thường cho bị hại Vàng Thị C 14.000.000 đồng tiền bù đắp tổn thất tinh thần và bồi thường cho anh Vàng A Phong 6.000.000 đồng tiền chi phí tìm kiếm bị hại. Tổng cộng là 20.000.000 đồng, P của mỗi bị Cáo là 10.000.000 đồng.

Buộc bị Cáo Sùng A C, Chang A V, Chang A L phải liên đới bồi thường cho bị hại Giàng Thị S 14.000.000 đồng tiền bù đắp tổn thất tinh thần và bồi thường cho ông Giàng A Chua 6.000.000 đồng tiền chi phí tìm kiếm bị hại. Tổng cộng là 20.000.000 đồng, P của mỗi bị Cáo là 6.667.000 đồng.

Buộc bị Cáo Sùng A C và Sùng A T phải liên đới bồi thường cho bị hại Vàng Thị Đ 14.000.000 đồng tiền bù đắp tổn thất tinh thần và bồi thường cho ông Vàng A Chứ 6.000.000 đồng tiền chi phí tìm kiếm bị hại. Tổng cộng là 21.000.000 đồng, P của mỗi bị Cáo là 10.000.000 đồng.

Buộc bị Cáo Sùng A C phải bồi thường cho bị hại Thào Thị Mẩy 14.000.000 đồng tiền bù đắp tổn thất tinh thần và bồi thường cho ông Thào A Phử 6.000.000 đồng tiền chi phí tìm kiếm bị hại. Tổng cộng là 20.000.000 đồng.

Buộc bị Cáo Sùng A C phải bồi thường cho bị hại Thào Thị Giàng 14.000.000 đồng tiền bù đắp tổn thất tinh thần và bồi thường cho anh Thào A Phừ 6.000.000 đồng tiền chi phí tìm kiếm bị hại. Tổng cộng là 20.000.000 đồng.

Buộc bị Cáo Thào Seo H và Sùng A C phải liên đới bồi thường cho bị hại Giàng Thị D 14.000.000 đồng, P của mỗi bị Cáo là 7.000.000 đồng.

Buộc bị Cáo Sùng A C và Thào Seo H phải liên đới bồi thường cho bị hại Lý Thị Đ 14.000.000 đồng, P của mỗi bị Cáo là 7.000.000 đồng.

Buộc bị Cáo Chang A V phải bồi thường cho bị hại Giàng Thị C 14.000.000 đồng tiền bù đắp tổn thất tinh thần.

Buộc bị Cáo Sùng A C và Chang A V phải liên đới bồi thường cho bị hại Sùng Thị Nga 14.000.000 đồng tiền bù đắp tổn thất tinh thần và bồi thường cho ông Sùng A Khai 6.000.000 đồng tiền chi phí tìm kiếm bị hại. Tổng cộng là 20.000.000 đồng, P của mỗi bị Cáo là 10.000.000 đồng.

Buộc bị Cáo Sùng A C, Chang A V và Sùng A T phải liên đới bồi thường cho bị hại Giàng Thị Sua 14.000.000 đồng và bồi thường cho ông Giàng Thào Páo 6.000.000 đồng tiền chi phí tìm kiếm. Tổng cộng là 20.000.000 đồng, P của mỗi bị Cáo là 6.667.000 đồng.

Buộc bị Cáo Sùng A C, Thào Seo H phải liên đới bồi thường cho ông Lý A Mang 6.000.000 đồng tiền chi phí tìm kiếm, P của mỗi bị Cáo là 3.000.000 đồng.

Buộc bị Cáo Sùng A C, Thào Seo H phải liên đới bồi thường cho bị hại Lý Thị Súa 14.000.000 đồng tiền bù đắp tổn thất tinh thần và bồi thường cho ông Lý A Ký 6.000.000 đồng tiền chi phí tìm kiếm. Tổng cộng là 20.000.000 đồng, P của mỗi bị Cáo là 10.000.000 đồng.

Buộc bị Cáo Sùng A C phải bồi thường cho ông Sùng A Cháng 6.000.000 đồng tiền chi phí tìm kiếm bị hại.

Buộc bị Cáo Thào Seo H và Sùng A C phải liên đới bồi thường cho ông Hạng A Hờ 6.000.000 đồng tiền chi phí tìm kiếm bị hại, P của mỗi bị Cáo là 3.000.000 đồng.

Buộc bị Cáo Sùng A C phải bồi thường cho bà Vừ Thị Dê 6.000.000 đồng tiền chi phí tìm kiếm bị hại, bồi thường cho bị hại Giàng Thị C và Giàng Thị Đơ mỗi bị hại 14.000.000 đồng tiền bù đắp tổn thất tinh thần. Tổng cộng là 34.000.000 đồng.

Buộc bị Cáo Sùng A C, Thào Seo Áo, Ly Seo P phải liên đới bồi thường cho bị hại Lù Thị Số 14.000.000 đồng tiền bù đắp tổn thất tinh thần và bồi thường cho anh Lù A Chính 6.000.000 đồng tiền chi phí tìm kiếm bị hại. Tổng cộng là 20.000.000 đồng, P của mỗi bị Cáo là 6.667.000 đồng.

Buộc bị Cáo Sùng A C, Thào Seo Áo, Ly Seo P phải liên đới bồi thường cho bị hại Sồng Thị Nu 14.000.000 đồng tiền bù đắp tổn thất tinh thần và bồi thường cho ông Sồng A Dê 6.000.000 đồng tiền chi phí tìm kiếm bị hại. Tổng cộng là 20.000.000 đồng, P của mỗi bị Cáo là 6.667.000 đồng.

Buộc bị Cáo Sùng A C phải bồi thường cho ông Vàng Seo Páo 6.000.000 đồng tiền chi phí tìm kiếm bị hại và bồi thường cho bị hại Vàng Thị Cúc 14.000.000 đồng tiền bù đắp tổn thất tinh thần. Tổng cộng là 20.000.000 đồng.

Buộc bị Cáo Sùng A C phải bồi thường cho Hảng Seo Páo 6.000.000 đồng tiền chi phí tìm kiếm bị hại và bồi thường cho bị hại Hảng Thị Súng 14.000.000 đồng tiền bù đắp tổn thất tinh thần. Tổng cộng là 20.000.000 đồng.

[5] Về xử lý vật chứng:

Đối với vật chứng là điện thoại thu giữ của Các bị Cáo là công cụ Các bị Cáo sử dụng trong quá trình phạm tội nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

Đối với chiếc xe ô tô của bị Cáo Chang A V: Là tài sản chung của bị Cáo và vợ là chị Mùa Thị Mỷ. Khi bị Cáo sử dụng chiếc xe để thực hiện hành vi phạm tội chị Mỷ không biết. Vì vậy, cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước ½ giá trị chiếc xe và trả cho chị Mùa Thị Mỷ ½ giá trị chiếc xe.

Đối với vật chứng là 01 máy tính bảng và 03 tờ tiền có tổng mệnh giá 350.000 đồng do Trung Quốc chuyển giao và số tiền 13.460.000 đồng thu của Giàng Seo Sếnh: cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

Đối với một số vật chứng như: bộ đàm, sổ tay, sim điện thoại, thẻ nhớ: là vật chứng không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với vật chứng là giấy phép lái xe, CMTND, thẻ ATM: là tài sản của hợp pháp của Các bị Cáo cần trả cho Các bị Cáo.

Đối với vật chứng là đăng ký, đăng kiểm, bảo hiểm xe ô tô: cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Đối với số tiền bán Các bị hại mà Các bị Cáo đã chi tiêu cần truy thu sung quỹ nhà nước. Cụ thể, cần truy thu của Sùng A C: 78.500 CNY; Chang A V:

39.000 CNY; Sùng A T: 13.500 CNY; Chang A L: 13.500 CNY; H: 58.118 CNY (được quy đổi ra tiền Việt Nam Đồng theo tỷ giá tại thời điểm phạm tội).

[6] Về án phí: Các bị Cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì Các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Sùng A C, Chang A V, Thào Seo H, Sùng A T phạm tội “Mua bán người” và “Mua bán người dưới 16 tuổi” Tuyên bố các bị cáo Thào Seo Áo, Ly Seo P phạm tội “Mua bán người”. Tuyên bố bị cáo Chang A L phạm tội “Mua bán người dưới 16 tuổi”.

2. Áp dụng điểm a, đ khoản 3 Điều 150; điểm b, e khoản 3 Điều 151; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Sùng A C 15 (Mười lăm) năm tù về tội “Mua bán người”, Tù chung thân về tội “Mua bán người dưới 16 tuổi”. Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là Tù chung thân. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/7/2020.

Áp dụng điểm d, đ, e khoản 2 Điều 150; điểm c, đ, e khoản 2 Điều 151;

điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Chang A V 10 (Mười) năm tù về tội “Mua bán người” và 15 (Mười lăm) năm tù về tội “Mua bán người dưới 16 tuổi”. Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 25 (Hai mươi lăm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/7/2020.

Áp dụng điểm d, đ, e khoản 2 Điều 150; điểm đ khoản 2 Điều 151; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Thào Seo H 10 (Mười) năm tù về tội “Mua bán người” và 12 (Mười hai) năm tù về tội “Mua bán người dưới 16 tuổi”. Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 22 (Hai mươi hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/7/2020.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 150; điểm đ khoản 2 Điều 151; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Sùng A T 8 (Tám) năm tù về tội “Mua bán người” và 12 (Mười hai) năm tù về tội “Mua bán người dưới 16 tuổi”. Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 20 (Hai mươi) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/8/2020.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 151; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Chang A L 12 (Mười hai) năm tù về tội “Mua bán người dưới 16 tuổi”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/7/2020.

Áp dụng điểm d, đ khoản 2 Điều 150; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 15; Điều 57; Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Thào Seo Áo 07 (Bảy) năm tù về tội: “Mua bán người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/7/2020.

Áp dụng điểm d, đ khoản 2 Điều 150; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 15; Điều 57; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Ly Seo P 07 (Bảy) năm tù về tội “Mua bán người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/7/2020

Về trách nhiệm dân sự:

Căn cứ Điều 584, 585, 587, 592 Bộ luật Dân sự:

Buộc bị cáo Sùng A C và bị cáo Thào Seo H phải liên đới bồi thường cho bị hại Thào Thị L 14.000.000 đồng và bồi thường cho ông Thào Dìn 6.000.000 đồng. Tổng cộng là 20.000.000 đồng, P của bị cáo Sùng A C là 10.000.000 đồng, P của bị Cáo Thào Seo H là 10.000.000 đồng.

Buộc bị cáo Sùng A C phải bồi thường cho bị hại Ma T 14.000.000 đồng và bồi thường cho ông Ma Chẩn 6.000.000 đồng tiền chi phí tìm kiếm bị hại. Tổng cộng là 20.000.000 đồng.

Buộc bị cáo Sùng A C và Chang A V phải liên đới bồi thường cho bị hại Vàng Thị C 14.000.000 đồng và bồi thường cho anh Vàng A Phong 6.000.000 đồng. Tổng cộng là 20.000.000 đồng, P của bị cáo Sùng A C là 10.000.000 đồng, P của bị Cáo Chang A V là 10.000.000 đồng.

Buộc bị Cáo Sùng A C, Chang A V, Chang A L phải liên đới bồi thường cho bị hại Giàng Thị S 14.000.000 đồng và bồi thường cho ông Giàng A Chua 6.000.000 đồng. Tổng cộng là 20.000.000 đồng, P của bị Cáo Sùng A C là 6.667.000 đồng, P của bị Cáo Chang A V là 6.667.000 đồng, P của bị Cáo Chang A L là 6.667.000 đồng.

Buộc bị Cáo Sùng A C và Sùng A T phải liên đới bồi thường cho bị hại Vàng Thị Đ 14.000.000 đồng và bồi thường cho ông Vàng A Chứ 6.000.000 đồng. Tổng cộng là 21.000.000 đồng, P của bị Cáo Sùng A C là 10.000.000 đồng, P của bị Cáo Sùng A T là 10.000.000 đồng.

Buộc bị Cáo Sùng A C phải bồi thường cho bị hại Thào Thị Mẩy 14.000.000 đồng và bồi thường cho ông Thào A Phử 6.000.000 đồng. Tổng cộng là 20.000.000 đồng.

Buộc bị Cáo Sùng A C phải bồi thường cho bị hại Thào Thị Giàng 14.000.000 đồng và bồi thường cho anh Thào A Phừ 6.000.000 đồng. Tổng cộng là 20.000.000 đồng.

Buộc bị Cáo Thào Seo H và Sùng A C phải liên đới bồi thường cho bị hại Giàng Thị D 14.000.000 đồng, P của bị Cáo Thào Seo H là 7.000.000 đồng, P của bị Cáo Sùng A C là 7.000.000 đồng.

Buộc bị Cáo Sùng A C và Thào Seo H phải liên đới bồi thường cho bị hại Lý Thị Đ 14.000.000 đồng, P của bị Cáo Sùng A C là 7.000.000 đồng, P của bị Cáo Thào Seo H là 7.000.000 đồng.

Buộc bị Cáo Chang A V phải bồi thường cho bị hại Giàng Thị C 14.000.000 đồng.

Buộc bị Cáo Sùng A C và Chang A V phải liên đới bồi thường cho bị hại Sùng Thị Nga 14.000.000 đồng và bồi thường cho ông Sùng A Khai 6.000.000 đồng. Tổng cộng là 20.000.000 đồng, P của bị Cáo Sùng A C là 10.000.000 đồng, P của bị Cáo Chang A V là 10.000.000 đồng.

Buộc bị Cáo Sùng A C, Chang A V và Sùng A T phải liên đới bồi thường cho bị hại Giàng Thị Sua 14.000.000 đồng và liên đới bồi thường cho ông Giàng Thào Páo 6.000.000 đồng. Tổng cộng là 20.000.000 đồng, P của bị Cáo Sùng A C là 6.667.000 đồng, P của bị Cáo Chang A V là 6.667.000 đồng, P của bị Cáo Sùng A T là 6.667.000 đồng.

Buộc bị Cáo Sùng A C, Thào Seo H phải liên đới bồi thường cho ông Lý A Mang 6.000.000 đồng, P của bị Cáo Sùng A C là 3.000.000 đồng, P của bị Cáo Thào Seo H là 3.000.000 đồng.

Buộc bị Cáo Sùng A C, Thào Seo H phải liên đới bồi thường cho bị hại Lý Thị Súa 14.000.000 đồng và bồi thường cho ông Lý A Ký 6.000.000 đồng. Tổng cộng là 20.000.000 đồng, P của bị Cáo Sùng A C là 10.000.000 đồng, P của bị Cáo Thào Seo H là 10.000.000 đồng.

Buộc bị Cáo Sùng A C phải bồi thường cho ông Sùng A Cháng 6.000.000 đồng.Buộc bị Cáo Thào Seo H và Sùng A C phải liên đới bồi thường cho ông Hạng A Hờ 6.000.000 đồng, P của bị Cáo Sùng A C là 3.000.000 đồng, P của bị Cáo Thào Seo H là 3.000.000 đồng.

Buộc bị Cáo Sùng A C phải bồi thường cho bà Vừ Thị Dê 6.000.000 đồng, bồi thường cho bị hại Giàng Thị C và Giàng Thị Đơ mỗi bị hại 14.000.000 đồng. Tổng cộng là 34.000.000 đồng.

Buộc bị Cáo Sùng A C, Thào Seo Áo, Ly Seo P phải liên đới bồi thường cho bị hại Lù Thị Số 14.000.000 đồng và bồi thường cho anh Lù A Chính 6.000.000 đồng. Tổng cộng là 20.000.000 đồng, P của bị Cáo Sùng A C là 6.667.000 đồng, P của bị Cáo Thào Seo Áo là 6.667.000 đồng, P của bị Cáo Ly Seo P là 6.667.000 đồng.

Buộc bị Cáo Sùng A C, Thào Seo Áo, Ly Seo P phải liên đới bồi thường cho bị hại Sồng Thị Nu 14.000.000 đồng tiền bù đắp tổn thất tinh thần và liên đới bồi thường cho ông Sồng A Dê 6.000.000 đồng tiền chi phí tìm kiếm bị hại. Tổng cộng là 20.000.000 đồng, P của bị Cáo Sùng A C là 6.667.000 đồng, P của bị Cáo Thào Seo Áo là 6.667.000 đồng, P của bị Cáo Ly Seo P là 6.667.000 đồng.

Buộc bị Cáo Sùng A C phải bồi thường cho ông Vàng Seo Páo 6.000.000 đồng và bồi thường cho bị hại Vàng Thị Cúc 14.000.000 đồng. Tổng cộng là 20.000.000 đồng.

Buộc bị Cáo Sùng A C phải bồi thường cho Hảng Seo Páo 6.000.000 đồng và bồi thường cho bị hại Hảng Thị Súng 14.000.000 đồng. Tổng cộng là 20.000.000 đồng.

Tổng cộng, bị Cáo Sùng A C phải bồi thường cho Các bị hại và gia đình bị hại 236.668.000 đồng (Hai trăm ba mươi sáu triệu sáu trăm sáu mươi tám nghìn đồng) Bị Cáo Chang A V phải bồi thường cho Các bị hại và gia đình bị hại 47.334.000 đồng (Bốn mươi bảy triệu ba trăm ba mươi tư nghìn đồng) Bị có Thào Seo H phải bồi thường cho Các bị hại và gia đình bị hại 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng) Bị Cáo Sùng A T phải bồi thường cho Các bị hại và gia đình bị hại 16.667.000 đồng (Mười sáu triệu sáu trăm sáu mươi bảy nghìn đồng) Bị Cáo Chang A L phải bồi thường cho Các bị hại và gia đình bị hại 6.667.000 đồng (Sáu triệu sáu trăm sáu mươi bảy nghìn đồng) Bị Cáo Ly Seo P phải bồi thường cho Các bị hại và gia đình bị hại 13.334.000 đồng (Mười ba triệu ba trăm ba mươi tư nghìn đồng) Bi Cáo Thào Seo Áo phải bồi thường cho Các bị hại và gia đình bị hại 13.334.000 đồng (Mười ba triệu ba trăm ba mươi tư nghìn đồng) Về vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

* Truy thu nộp ngân sách nhà nước Truy thu nộp ngân sách nhà nước của bị Cáo Sùng A C số tiền 78.500 CNY, quy đổi thành 276.791.000 đồng.

Truy thu nộp ngân sách nhà nước của bị Cáo Chang A V số tiền 39.000 CNY, quy đổi thành 137.544.000 đồng.

Truy thu nộp ngân sách nhà nước của bị Cáo Sùng A T số tiền 13.500 CNY, quy đổi thành 47.601.000 đồng.

Truy thu nộp ngân sách nhà nước của bị Cáo Chang A L số tiền 13.500 CNY, quy đổi thành 47.601.000 đồng.

Truy thu nộp ngân sách nhà nước của bị Cáo Thào Seo H số tiền 5878 CNY, quy đổi thành 20.725.828 đồng.

* Tịch thu nộp ngân sách nhà nước - 01 (một) điện thoại vivo màu trắng hồng kèm theo 01 sim viettel, điện thoại hết pin đã cũ đã qua sử dụng, không kiểm tra chi tiết bên trong và 01 (một) điện thoại hiệu OPPO màu xanh tím, phía sau lưng có để 03 sim nhà mạng Trung Quốc và 1 sim nhà mạng viettel, 1 thẻ nhớ, điện thoại hết pin đã cũ đã qua sử dụng, không kiểm tra chi tiết bên trong thu giữ của Sùng A C;

- 01 (một) điện thoại IQOO màu đen màn hình cảm ứng, điện thoại hết pin đã cũ đã qua sử dụng, không kiểm tra chi tiết bên trong; 01 (một) điện thoại Smartphone hiệu Vivo màu đỏ đen kèm 2 sim, số imei: 864484047794236 điện thoại cũ đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại hiệu OPPO màu đen kèm theo 1 sim; Imei 866269040783635, điện thoại cũ, đã qua sử dụng thu giữ của Thào Seo H;

- 01 (một) điện thoại di động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu VIVO, mặt trước màu đen, mặt sau màu trắng, bên trong có lắp 02 (hai) thẻ sim của nhà mạng Viettel, điện thoại hết pin đã cũ, không kiểm tra chi tiết bên trong; 01 (một) điện thoại di động, loại bàn phím, nhãn hiệu JINOKE, màu trắng; kèm một thẻ sim Vinaphone, một thẻ sim Viettel, điện thoại hết pin, đã cũ đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động, loại bàn phím, nhãn hiệu GIONEE, màu đen, trên cùng góc bên trái có in chữ và số L800, bên trong lắp một thẻ sim Vinaphone, điện thoại hết pin, đã cũ đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động, loại bàn phím, nhãn hiệu SanCup, màu xanh - trắng; điện thoại hết pin, đã cũ đã qua sử dụng thu giữ của Chang A V;

- 1/2 xe ô tô gắn lô gô hãng taxi Mai Linh, nhãn hiệu KIA, số loại MORNING, màu trắng, biển số: 25A - 013.25, xe có cắm mào của hãng taxi Mai Linh, cản trước bên phụ bị vỡ P vỏ nhựa, tụt đèn, 03 Cnh cửa xe bị kẹt không mở được, xe đã cũ đã qua sử dung, bị trầy xước nhiều chỗ, xe hết điện không khởi động được, không kiểm tra chi tiết bên trong xe.

- 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, màu vàng trắng, điện thoại hết pin, đã cũ đã qua sử dụng, không kiểm tra chi tiết bên trong thu giữ của Thào Seo Áo;

- 01 (Một) máy tính bảng, nhãn hiệu Huawie, màu vàng hồng, số IMEI 1:

867127033125736, máy tính cũ đã qua sử dụng, không kiểm tra chi tiết bên trong do Trung Quốc chuyển giao;

- 03 tờ tiền Việt Nam trong đó 01 tờ mệnh giá 50.000 đồng, 01 tờ mệnh giá 100.000 đồng, 01 tờ mệnh giá 200.000 đồng do Trung Quốc chuyển giao;

- Tiền Việt Nam: 13.460.000 đồng.

* Tịch thu tiêu hủy - 02 (Một) bộ đàm màu đen, hiệu teltk1, đã cũ đã qua sử dụng do Trung Quốc chuyển giao;

- 01 (một) sổ tay màu đen có chữ Notebook thu giữ của Sùng A C;

- 02 (hai) sim điện thoại mạng viettel thu giữ của Thào Seo H;

- 01 (một) thẻ nhớ ký hiệu ADATA dung lượng 8G màu đen thu giữ của Thào Seo H;

- 40 (Bốn mươi) thẻ sim điện thoại do Trung Quốc chuyển giao;

- 02 (Hai) thẻ nhớ do Trung Quốc chuyển giao;

* Tạm giữ để đảm bảo thi hành án - 01 (một) chứng nhận đăng ký xe ô tô số 007474, mang tên Chang A V do Công an tỉnh Lai Châu cấp ngày 18/10/2019;

- 01 (một) giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện giao thông cơ giới đường bộ số 1338432 do Sở Giao thông vận tải tỉnh Lai Châu cấp ngày 24/3/2020;

- 01 (một) giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe ô tô;

- 01 (một) giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện xe ô tô;

* Trả lại cho bị Cáo Thào Seo Áo: 01 (một) chứng minh nhân dân số 063471653, mang tên Thào Seo Áo.

* Trả lại cho bị Cáo Chang A V:

- 01 (một) giấy phép lái xe hạng A1, do Sở Giao thông Vận tải tỉnh Lai Châu cấp ngày 02/10/2015 mang tên Chang A V;

- 01 (một) giấy phép lái xe hạng C, do Sở giao thông vận tải tỉnh Lai Châu cấp ngày 30/5/2018 mang tên Chang A V;

- 01 (một) thẻ ATM của ngân hàng Agribank mang tên Chang A V;

- 01 (một) thẻ ATM của ngân hàng Vietinbank mang tên Chang A V;

- 01 (một) chứng minh nhân dân số 045170687, do Công an tỉnh Sơn La cấp ngày 21/12/2016 mang tên Chang A V.

* Trả cho chị Mùa Thị Mỷ: 1/2 xe ô tô gắn lô gô hãng taxi Mai Linh, nhãn hiệu KIA, số loại MORNING, màu trắng, biển số: 25A - 013.25, xe có cắm mào của hãng taxi Mai Linh, cản trước bên phụ bị vỡ P vỏ nhựa, tụt đèn, 03 Cnh cửa xe bị kẹt không mở được, xe đã cũ đã qua sử dung, bị trầy xước nhiều chỗ, xe hết điện không khởi động được, không kiểm tra chi tiết bên trong xe.

* Trả lại cho Hợp tác xã H Bình Xanh - tỉnh Lai Châu (bà Cáo Thị Thủy là người đại diện): 01 bộ đàm màu đen có chữ TeLT K1; 01 mào hãng taxi hãng Mai Linh gắn trên xe nhãn hiệu KIA, số loại MORNING, màu trắng, biển số 25A - 013.25.

Về án phí: Áp dụng điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị Các bị Cáo Sùng A C, Chang A V, Thào Seo H, Sùng A T, Thào Seo Áo, Ly Seo P, Chang A L mỗi bị Cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Về án phí dân sự sơ thẩm:

Buộc bị Cáo Sùng A C phải chịu 11.833.400 đồng (Mười một triệu tám trăm ba mươi ba nghìn bốn trăm đồng);

Buộc bị Cáo Chang A V phải chịu 2.366.700 đồng (Hai triệu ba trăm sáu mươi sáu nghìn bảy trăm đồng);

Bị Cáo Thào Seo H phải chịu 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng);

Bị Cáo Sùng A T phải chịu 833.350 đồng (Tám trăm ba mươi ba nghìn ba trăm năm mươi đồng);

Bị Cáo Chang A L phải chịu 333.350 đồng (Ba trăm ba mươi ba nghìn ba trăm năm mươi đồng);

Bị Cáo Ly Seo P phải chịu 666.700 đồng (Sáu trăm sáu mươi sáu nghìn bảy trăm đồng);

Bị Cáo Thào Seo Áo phải chịu 666.700 đồng (Sáu trăm sáu mươi sáu nghìn bảy trăm đồng).

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với Các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với Các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả khoản tiền hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Các bị Cáo, Các bị hại, đại diện hợp pháp của Các bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng Cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Các bị hại, đại diện hợp pháp của Các bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng Cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hợp lệ.

“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự ”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

578
  • Tên bản án:
    Bản án 51/2021/HS-ST ngày 28/09/2021 về tội mua bán người và mua bán người dưới 16 tuổi
  • Cơ quan ban hành:
  • Số hiệu:
    51/2021/HS-ST
  • Cấp xét xử:
    Sơ thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hình sự
  • Ngày ban hành:
    28/09/2021
  • Từ khóa:
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 51/2021/HS-ST ngày 28/09/2021 về tội mua bán người và mua bán người dưới 16 tuổi

Số hiệu:51/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về