TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 51/2021/HSST NGÀY 28/05/2021 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM
Trong ngày 28 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thành – tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 36/2021/HSST ngày 16 tháng 4 năm 2021 và theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47 ngày 14 tháng 5 năm 2021 đối với các bị cáo:
Phan Văn Nh– tên gọi khác: không; sinh ngày 06/8/1989; Nơi ĐKHKTT: Xóm Đ – xã M – Yên Thành – Nghệ An; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Thợ hàn; Trình độ văn hóa: 12/12; Chức vụ Đảng, đoàn thể: không; Con ông Phan Văn Huấn– 1963, con bà Lê Thị Trung – 1965; Vợ Lê Thị Tuấn sinh năm 1995 và có 01 con, sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 13/01/2021 đến ngày 22/01/2021 được tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.
Nguyễn Thọ C – tên gọi khác: không; sinh ngày 13/5/2004; Nơi ĐKHKTT: Xóm 6 – xã Xuân Thành – Yên Thành – Nghệ An; Dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Đang là học sinh; trình độ văn hóa đang học lớp 11; con ông Nguyễn Thọ Hưng, sinh năm 1973, con bà Nguyễn Thị Lý, sinh năm 1979; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: chưa. Bị cáo được tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.
Nguyễn Cảnh S – tên gọi khác: không; Sinh ngày 16/10/1998; Nơi ĐKHKTT: Xóm 7 – xã Xuân Thành – Yên Thành – Nghệ An; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ văn hóa: 11/12; con ông: Nguyễn Cảnh Sơn– sinh năm 1966, con bà Vũ Thị Hiền– sinh năm 1966; Vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 12/01/2021 đến ngày 21/01/2021 được tại ngoại. Có mặt.
Trần Tuấn A – tên gọi khác: không; Sinh ngày 07/11/2004; Nơi ĐKHKTT: Xóm ĐT – xã H – Yên Thành– Nghệ An; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: đang là học sinh; Trình độ văn hóa: đang học lớp 11; chức vụ Đảng, đoàn thể: không; con ông Trần Văn H – sinh năm 1979 và bà Nguyễn Thị H1 – sinh năm 1983; Vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; bị cáo được tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo Trần Tuấn A và bị cáo Nguyễn Thọ C có bà: Phan Thị Thanh – Trợ giúp viên thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nghệ An. Có mặt.
Người đại diện theo pháp luật cho bị cáo Nguyễn Thọ C có bà Nguyễn Thị Lý, sinh năm 1979. Mẹ đẻ bị cáo.(Có mặt).
Người đại diện theo pháp luật cho bị cáo Trần Tuấn A có ông Trần Văn Hùng, sinh năm 1979. Bố đẻ bị cáo. Có mặt.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1, Lê Văn S, sinh ngày 18/6/2005 (vắng mặt) Trú tại: Xóm Y, xã H, Yên Thành, Nghệ An Người đại diện hợp pháp cho anh Lê Văn S có ông Lê Văn V (bố đẻ anh S). Có mặt.
2, Nguyễn Bá Ph, sinh ngày 07/8/200 (vắng mặt) Trú tại: Xóm Đ, xã M, Yên Thành, Nghệ An Người đại diện hợp pháp cho anh Nguyễn Bá Ph có anh Nguyễn Bá Th, sinh năm 1977 (bố đẻ anh Ph). Có mặt.
3, Chị Lê Thị T, sinh năm 1993. Có mặt Trú tại: Xóm Đ, xã M, Yên Thành, Nghệ An
NỘI DUNG VỤ ÁN
Các bị cáo Phan Văn Nh, Trần Tuấn A, Nguyễn Cảnh S, Nguyễn Thọ C bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Vào khoảng 12 giờ 00 phút ngày 08 tháng 01 năm 2021, Phan Văn Nh gặp Nguyễn Bá Ph, sinh ngày 07/8/2005, trú cùng xóm với Nh và nói “anh có 08 bánh pháo đây muốn bán, em có mối mô giới thiệu cho anh”, thì Phúc đồng ý. Sau đó Phúc đã gặp Lê Văn S sinh ngày 18/6/2005 trú xóm Y, xã H, Yên Thành và nhờ Sáng tìm người mua pháo thì Sáng đồng ý. Sau đó Sáng đã gặp Trần Tuấn A, sinh ngày 07/11/2004 tìm người mua pháo giới thiệu cho Sáng thì Tuấn A đồng ý. Trần Tuấn A gặp Trần Thọ C và trao đổi lại và nhờ C tìm người mua pháo giới thiệu cho Tuấn A thì C đồng ý. Đến khoảng 20 giờ ngày 11/01/2021, Nguyễn Thọ C đang ngồi uống nước với Nguyễn Cảnh S tại Ngã tư Nam Thành thuộc xóm Phú Sơn, xã Nam Thành thì tình cờ gặp một người đàn ông không quen biết, người này hỏi Nguyễn Thọ C “có biết ở mô bán pháo không” thì C nói “thằng bạn em bán”. Người này đặt mua 01 bánh pháo loại 36 quả với giá 1.150.000đ và hẹn giao hàng vào tối ngày 12/01/2021 tại nhà nghỉ Dũng Phát, xã Nam Thành thì C đồng ý. Sau đó C dùng điện thoại nhãn hiệu Realme 5i màu xanh bên trong chứa sim điện thoại số 0987930358 liên lạc với Trần Tuấn A đặt mua 01 bánh pháo loại 36 quả thì Tuấn A đồng ý. Trần Tuấn A sử dụng điện thoại nhãn hiệu OppoA3s màu đen bên trong chứa sim số 0886696038 liên lạc với Lê Văn S với nội dung đặt mua 01 bánh pháo loại 36 quả nói trên thì Sáng đồng ý. Lê Văn S sử dụng điện thoại nhãn hiệu Oppo A5s màu đen bên trong chứa sim số 0353039342 liên lạc với Nguyễn Bá Ph với nội dung có khách cần mua 01 bánh pháo loại 36 quả, có sẵn hàng thì giao luôn, Phúc đồng ý và dùng điện thoại nhãn hiệu Iphone 6plus màu vàng bên trong có sim số 0378871846 liên lạc với Phan Văn Nh là đã tìm được khách thì Nh đồng ý và nói giá với Phúc là 900.000 đ một bánh pháo. Sau đó Phúc đã liên lạc với Lê Văn S thông báo bánh pháo với giá như trên. Lê Văn S liên lạc với Trần Tuấn A rồi Trần Tuấn A liên lạc với Nguyễn Thọ C với nội dung là 01 bánh pháo giá 950.000đ thì C đồng ý. Sau đó Trần Tuấn A liên lạc với Nguyễn Thọ C nói C đưa tiền để lấy pháo, nhưng C nói Tuấn A trả tiền trước rồi C nhận pháo và trả tiền sau. Nghe C nói vậy nên Trần Tuấn A đã đưa Lê Văn S số tiền 900.000 đ để mua pháo. Đến khoảng 20 giờ 25 phút cùng ngày thì Nh điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu đỏ BKS 37U2 – 0610 chở Nguyễn Bá Ph mang theo một bánh pháo đến khu vực gần nhà Lê Văn S ở xóm Y, xã H, Yên Thành. Tại đây Nh đã đưa cho Lê Văn S 01 bánh pháo và Lê Văn S đã đưa cho Nh số tiền 900.000 đ. Sau khi lấy được pháo, Sáng mang pháo về nhà cất dấu. Đến khoảng 20 giờ 40 phút cùng ngày, người đàn ông đã đặt pháo trước đó quay lại chỗ uống cà phê trước để gặp Nguyễn Thọ C và Nguyễn Cảnh S. Tại đây người đàn ông đó lại đặt Nguyễn Thọ C mua thêm 06 bánh pháo (loại 36 quả), C đồng ý và nói tổng cộng 07 bánh pháo với giá 8 triệu đồng thì người đàn ông này đồng ý. Sau khi thỏa thuận xong thì hai bên thống nhất sẽ giao hàng vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 12/01/2021 tại nhà nghỉ Dũng Phát thuộc xóm 1, xã Bắc Thành. Trong buổi chiều ngày 12 tháng 01 năm 2021 Nguyễn Thọ C liên lạc với Trần Tuấn A với nội dung đặt mua 07 bánh pháo loại 36 quả và cần giao pháo luôn, Tuấn A đồng ý. Sau đó Tuấn A liên lạc Sáng với nội dung trên thì Sáng đồng ý, Sáng liên lạc với Nguyễn Bá Ph cũng với nội dung trên thì Phúc đồng ý, Nguyễn Bá Ph liên lạc với Phan Văn Nh về việc mua thêm 07 bánh pháo thì Nh nói giá 950.000 đ một bánh pháo. Sau đó Phúc liên lạc lại với Sáng, Sáng lại liên lạc với Trần Tuấn A, Tuấn A liên lạc với Nguyễn Thọ C với nội dung giá một bánh pháo là 950.000 đ thì C đồng ý. Đến khoảng 18 giờ 50 phút ngày 12/01/2021, Nguyễn Thọ C đến nhà Nguyễn Cảnh S rủ Nguyễn Cảnh S chở đi mua pháo về bán lại kiếm lời thì S đồng ý. S điều khiển xe máy nhãn hiệu Yamaha Exciter màu xanh đen, BKS 37P1- 646.52 mượn của chị Nguyễn Thị Sương sinh năm 2001 để chở C đi gặp người bán pháo. Trên đường đi C nói với S là khi bán pháo xong có tiền lời sẽ chia cho S một nữa thì S đồng ý. Nguyễn Thọ C và Nguyễn Cảnh S đến gặp Trần Tuấn A, Trần Tuấn A gọi điện cho Lê Văn S ra gặp C và S. Tại đây C đưa cho Tuấn A số tiền 500.000đ là tiền công giới thiệu mua bán pháo. Sau đó cả Tuấn A, C, S, đi gặp Lê Văn S, Lê Văn S liên lạc với Nguyễn Bá Ph đến địa điểm giao dịch mua bán pháo. Đến khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày Phan Văn Nh điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu đỏ BKS 37U2- 0610 chở Nguyễn Bá Ph mang theo 01 bao xác rắn màu trắng bên trong có 07 bánh pháo loại 36 quả đưa cho Nguyễn Thọ C, C kiểm tra pháo xong thì nói với Nh là khi nào bán pháo xong sẽ giao tiền cho Nh thì Nh đồng ý. Sau đó S điều khiển xe mô tô chở Nguyễn Thọ C cùng số pháo mua được đi về phía nhà nghỉ Dũng Phát ở xóm 1, xã Bắc Thành để bán pháo. Khi cả hai đi đến địa điểm giao pháo nhưng chưa kịp bán pháo thì bị công an huyện Yên Thành phát hiện, bắt quả tang, thu giữ tại chỗ 01 bao bì xác rắn màu trắng bên trong có chứa 07 khối hình hộp chữ nhật có kích thước giống nhau (14x14x10)cm, bên ngoài mỗi khối hình hộp được bọc giấy ni lông có ghi chữ nước ngoài, hình ảnh pháo nổ cháy sáng nhiều màu sắc và có kí hiệu là A8407. Cùng ngày Cơ quan điều tra công an huyện Yên Thành khám xét chỗ ở của Lê Văn S và thu giữ 01 bánh pháo có kích thước và đặc điểm như số pháo thu giữ của C và S.
Quá trình điều tra Phan Văn Nh khai nhận: vào ngày 15/6/2020 Nh đã mua 08 bánh pháo có đặc điểm như trên của Nguyễn Bá Trang sinh năm 1991 trú cùng xóm với Nh với giá 750.000đ/ bánh pháo để bán kiếm lời. Tại bản kết luận số 101/KL – PC 09 ngày 19/01/2021 của Phòng kỹ thuật Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu vật thu giữ của Nguyễn Thọ C và Nguyễn Cảnh S gửi tới giám định là pháo, là loại pháo nổ. Tại bản kết luận số 102/KL – PC 09 ngày 19/01/2021 của Phòng kỹ thuật Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu vật thu giữ của Lê Văn S gửi tới giám định là pháo, là loại pháo nổ.
Cáo trạng số 51/VKS – HS ngày 15 tháng 4 năm 2021 của VKSND huyện Yên Thành đã truy tố các bị cáo Phan Văn Nh, Trần Thọ C, Nguyễn Cảnh S, Trần Tuấn A về tội “Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 190 BKHS và đề nghị Hội đồng xét xử xử lý đối với các bị cáo như sau: xử phạt bị cáo Phan Văn Nh từ 15 đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 30 đến 36 tháng kể từ ngày tuyên án; xử phạt bị cáo Nguyễn Cảnh S tù 12 đến15 tháng tù; xử phạt bị cáo Nguyễn Thọ C, Trần Tuấn A mỗi bị cáo từ 08 đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 16 đến 18 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo do có hoàn cảnh khó khăn cũng như có 02 bị cáo đang tuổi vị thành niên.
Đối với Nguyễn Bá Ph, sinh ngày 08/7/2005, Lê Văn S, sinh ngày 18/6/2005 cũng tham gia việc mua bán 08 bánh pháo nói trên tuy nhiên khi thực hiện hành vi này hai đối tượng Sáng và Phúc chưa đủ 16 tuổi nên Sáng và Phúc không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Về vật chứng vụ án: 08 bánh pháo có tổng khối lượng 10,2 kg, đã lấy 02 bánh đi giám định, còn lại 06 bánh có khối lượng 7,8kg; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Realme 5i màu xanh, chứa sim số 0987930358 thu giữ của Nguyễn Thọ C; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A3s màu đen, bên trong chứa sim số 0886696038 thu giữ của Trần Tuấn A; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A5s màu đen, bên trong chứa sim số 0353039342 thu giữ của Lê Văn S; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphonne 6plus màu vàng, bên trong chứa sim số 0378871846 thu giữ của Nguyễn Bá Ph; 01chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart Live 4 màu đen, bên trong chứa sim số 0867499456 thu giữ của Phan Văn Nh; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Realme 5 màu xanh bên trong chứa 02 sim số 0392184327 và 0352836050 thu của Nguyễn Cảnh S; 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter 5B95 màu đỏ đen, BKS 37U2- 0610 xe đã qua sử dụng của Phan Văn Nh. Đối với số pháo còn lại là vật cấm lưu hành đề nghị tịch thu tiêu hủy, đối với các điện thoại thu giữ của các đối tượng là công cụ liên lạc để phạm tội cần tuyên tịch thu bán hóa giá sung quỹ Nhà nước. Đối với chiếc xe máy Yamaha Jupiter 5B95 màu đỏ đen, BKS 37U2- 0610 xe đã qua sử dụng thu của Phan Văn Nh thì đây là chiếc xe thuộc sở hữu chung của vợ chồng Phan Văn Nh và chị Lê Thị Tuấn cần trả lại cho bị cáo Lê Văn Nh. Các vật chứng này hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của Công an huyện Yên Thành và Chi cục thi hành án Dân sự huyện Yên Thành. Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha loại xe exciter màu xanh đen, BKS 37P1- 646.52 thu giữ của Nguyễn Cảnh S thì chiếc xe này thuộc sở hữu của chị Nguyễn Thị Sương, sinh năm 2001, khi cho S mượn xe chị Sương không biết S mượn xe đi đâu, sử dụng vào việc gì nên cơ quan Điều tra Công an huyện Yên Thành đã trả lại cho chị Sương theo quy định. Truy thu số tiền 900.000đ (chín trăm nghìn đồng) từ Phan Văn Nh, truy thu số tiền 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) từ Trần Tuấn A là tiền thu lợi bất chính.
Người bào chữa cho hai bị cáo Nguyễn Thọ C và Trần Tuấn A trình bày: Sự việc phạm tội của các bị cáo là đã rõ ràng. Việc Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành truy tố các bị cáo là đúng người đúng tội, tuy nhiên đề nghị HĐXX xem xét cho các bị cáo Trần Tuấn A, Nguyễn Thọ C ở các tình tiết sau: Các bị cáo phạm tội khi tuổi đời còn rất trẻ, nhận thức pháp luật còn hạn chế, do bị bạn bè rủ rê, lôi kéo, tại phiên tòa hôm nay các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Quá trình học tập có thành tích học tập tốt, ông bà các bị cáo có thành tích trong kháng chiến. Vì vậy đề nghị HĐXX áp dụng các điều 91 và 101 của BLHS để xử phạt các bị cáo Trần Tuấn A và Nguyễn Thọ C ở mức 08 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, ngoài ra đề nghị miễn hình phạt bổ sung đối với các bị cáo do các bị cáo đang ở độ tuổi vị thành niên.
Người đại diện theo pháp luật cho bị cáo Trần Tuấn A trình bày: Đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho con chúng tôi vì cháu đang là học sinh bị bạn bè lôi kéo, chúng tôi hứa sẽ quan tâm cháu nhiều hơn nữa.
Người đại diện theo pháp luật cho bị cáo Nguyễn Thọ C trình bày: Gia đình tôi có hoàn cảnh đặc biệt, bố mẹ đã ly hôn nên không quản lý con cái được chu đáo, ny con tôi phạm tội buôn bán hàng cấm nhưng cháu đang còn đi học và mấy tháng nữa là tốt nghiệp (vì học trường nghề) nên xin HĐXX xem xét giảm nhẹ cho con tôi để cháu có cơ hội được học hết và có tấm bằng cấp 3.
Người có quyền lợi liên quan chị Lê Thị Tuấn trình bày: Chiếc xe máy Yamaha Jupiter 5B95 màu đỏ đen, BKS 37U2- 0610 xe đã qua sử dụng thu của Phan Văn Nh thì đây là chiếc xe thuộc sở hữu chung của vợ chồng chị và anh Tuấn, vì vậy đề nghị HĐXX xem xét trả chiếc xe này cho vợ chồng chị vì cả gia đình chị có một chiếc xe máy này để làm phương tiện đi lại.
Đối với anh Lê Văn Vinh đại diện hợp pháp cho anh Lê Văn S trình bày: Anh sẽ cố gắng quan tâm con nhiều hơn, còn chiếc điện thoại mà cơ quan điều tra thu của con anh thì đề nghị trả lại cho cháu Sáng.
Đối với anh Nguyễn Bá Thịnh đại diện hợp pháp cho anh Nguyễn Bá Ph trình bày: Sự việc con anh vi phạm nhưng không bị xử lý hình sự cũng là may mắn cho gia đình anh, anh sẽ cố gắng quan tâm đến con nhiều hơn. Đối với chiếc điện thoại thu giữ của cháu Phúc nếu cháu Phúc không vi phạm pháp luật thì đề nghị trả chiếc điện thoại trên cho con anh.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Tại phiên tòa, các bị cáo đều thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra lại tại phiên tòa. Từ đó xác định được vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 12 tháng 01 năm 2021 tại khu vực nhà nghỉ Dũng Phát ở xóm 1, xã Bắc Thành, huyện Yên Thành, Nghệ An, bị cáo Nguyễn Thọ C và bị cáo Nguyễn Cảnh S có hành vi mang 07 bánh pháo nổ khối lượng 09 kg đang đi bán thì bị bắt quả tang. Quá trình lấy lời khai cơ quan điều tra thu giữ tiếp tại nhà của Lê Văn S, sinh ngày 18/6/2005 01 bánh pháo có đặc điểm tương tự như 07 bánh pháo thu giữ ở trên có khối lượng 1,2kg. Quá trình điều tra Trần Tuấn A và Phan Văn Nh khai nhận: Do quen biết nhau từ trước nên Phan Văn Nh đã nhờ Nguyễn Bá Ph, Nguyễn Bá Ph lại liên hệ với Lê Văn S, Sáng lại liên lạc với Trần Tuấn A, Trần Tuấn A lại liên lạc với Nguyễn Thọ C và Nguyễn Cảnh S để thông qua đó đồng ý bán 08 bánh pháo loại 36 quả cho một người đàn ông không quen biết. Khi các bị cáo Nguyễn Thọ C và Nguyễn Cảnh S đang đi giao 07 bánh pháo có đặc điểm như trên đến điểm hẹn thì bị bắt quả tang, các bị cáo phải nhận thức được rằng mua bán, tàng trữ pháo nổ là vi phạm pháp luật bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng do các bị cáo có ý thức coi thường pháp luật, muốn kiếm tiền một cách nhanh chóng nên đã đẩy các bị cáo vào con đường phạm tội. Như vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định các bị cáo Nguyễn Thọ C, Nguyễn Cảnh S, Trần Tuấn A, Phan Văn Nh phạm tội “Buôn bán hàng cấm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 điều 190 của BLHS.
Xét vị trí, vai trò của từng bị cáo trong vụ án thì thấy rằng: Trong vụ án này các bị cáo phạm tội giản đơn không có người tổ chức tuy nhiên Phan Văn Nh là người khởi xướng vì vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm chính trong vụ án. Các bị cáo Nguyễn Thọ C, Trần Tuấn A phạm tội khi đang ở tuổi vị thành niên nên khi lượng hình cần xem xét, áp dụng tình tiết đối với người chưa thành niên phạm tội.
Xét tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
Xét tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo đều thành khẩn khai báo, biết ăn năn hối cải, bị cáo Phan Văn Nh, trong quá trình sinh sống tại địa phương được chính quyền địa phương tặng giấy khen trong phong trào thanh niên tình nguyện hè năm 2020, bị cáo Trần Tuấn A, Nguyễn Thọ C trong học tập được tặng giấy khen về thành tích học tập, ông bà của các bị cáo này có công với Nhà nước được tặng huân, huy chương kháng chiến. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, 2 điều 51 BLHS.
Về nhân thân: Các bị cáo có nhân thân tốt chưa ai có tiền án, tiền sự.
Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự trên cơ sở cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội do các bị cáo gây ra, kết hợp với việc xem xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Thấy các bị cáo buôn bán với số lượng pháo không lớn nhưng có sự chuẩn bị liên hệ, phổ biến cho nhiều người, trong đó bị cáo Nguyễn Cảnh S là người trực tiếp đưa pháo đi giao cho người khác, bị cáo chỉ có một tình tiết thành khẩn khai báo, không có các tình tiết giảm nhẹ như các bị cáo khác vì vậy phải cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian như phần luận tội của vị đại diện Viện kiểm sát là hợp lý. Đối với các bị cáo khác có nhiều tình tiết giảm nhẹ trong đó có 02 bị cáo đang ngồi trên ghế nhà trường vì vậy chỉ cần phạt tù nhưng cho các bị cáo hưởng án treo cũng đủ nghiêm để răn đe, giáo dục, giao các bị cáo về cho chính quyền địa phương quản lý giáo dục cũng đủ nghiêm.
Về vật chứng vụ án: 08 bánh pháo có tổng khối lượng 10,2 kg, đã lấy 02 bánh đi giám định, 06 bánh còn lại có khối lượng 7,8kg là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Realme 5i màu xanh, chứa sim số 0987930358 thu giữ của Nguyễn Thọ C; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A3s màu đen, bên trong chứa sim số 0886696038 thu giữ của Trần Tuấn A; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart Live 4 màu đen, bên trong chứa sim số 0867499456 thu giữ của Phan Văn Nh; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Realme 5 màu xanh bên trong chứa 02 sim số 0392184327 và 0352836050 thu của Nguyễn Cảnh S; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A5s màu đen, bên trong chứa sim số 0353039342 thu giữ của Lê Văn S; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphonne 6plus màu vàng, bên trong chứa sim số 0378871846 thu giữ của Nguyễn Bá Ph. Đây là những tang vật liên quan đến việc phạm tội của các đối tượng cần tịch thu bán hóa giá để sung quỹ Nhà nước. Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter 5B95 màu đỏ đen, BKS 37U2- 0610 xe đã qua sử dụng của Phan Văn Nh thì đây là xe thuộc sở hữu chung của vợ chồng Phan Văn Nh và chị Lê Thị Tuấn vì vậy cần trả lại chiếc xe này cho bị cáo Phan Văn Nh. Các vật chứng này hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của Công an huyện Yên Thành và Chi cục thi hành án Dân sự huyện Yên Thành. Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha loại xe exciter màu xanh đen, BKS 37P1- 646.52 thu giữ của Nguyễn Cảnh S thì chiếc xe này thuộc sở hữu của chị Nguyễn Thị Sương, sinh năm 2001, khi cho S mượn xe chị Sương không biết S đi với mục đích gì nên cơ quan Điều tra đã trả lại cho chị Sương theo quy định.
Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo Nguyễn Cảnh S, Nguyễn Thọ C thuộc hộ cận nghèo, bị cáo Trần Tuấn A đang còn là học sinh, bị cáo Phan Văn Nh có vợ đang mang bầu, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.
Về án phí: Các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố các bị cáo Phan Văn Nh, Nguyễn Cảnh S, Trần Tuấn A, Nguyễn Thọ C phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.
Áp dụng điểm c khoản 1 điều 190; điểm s khoản 1, 2 điều 51, điều 65 BLHS đối với bị cáo Phan Văn Nh. Xử phạt bị cáo Phan Văn Nh 14 (mười bốn) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 28 (hai mươi tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo Phan Văn Nh về cho UBND xã M, huyện Yên Thành giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
Áp dụng điểm c khoản 1 điều 190; điểm s khoản 1, 2 điều 51, điều 91, điều 101, điều 65 BLHS đối với bị cáo Trần Tuấn A. Xử phạt bị cáo Trần Tuấn A 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo Trần Tuấn A về cho UBND xã H, huyện Yên Thành giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
Áp dụng điểm c khoản 1 điều 190; điểm s khoản 1, 2 điều 51, điều 91, điều 101, điều 65 BLHS đối với bị cáo Nguyễn Thọ C. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thọ C 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo Nguyễn Thọ C về cho UBND xã Xuân Thành, huyện Yên Thành giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo điều 69 Luật thi hành án Hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Áp dụng điểm c khoản 1 điều 190, điểm s khoản 1 điều 51, điều 38 BLHS. Xử phạt bị cáo Nguyễn Cảnh S 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 12/01/2021 đến ngày 21/01/2021.
Về vật chứng: Áp dụng khoản 2 điều 106 BLTTHS, điều 47 BLHS: Tuyên tịch thu để bán hóa giá sung quỹ Nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Realme 5i màu xanh, chứa sim số 0987930358 thu giữ của Nguyễn Thọ C; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A3s màu đen, bên trong chứa sim số 0886696038 thu giữ của Trần Tuấn A; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart Live 4 màu đen, bên trong chứa sim số 0867499456 thu giữ của Phan Văn Nh; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Realme 5 màu xanh bên trong chứa 02 sim số 0392184327 và 0352836050 thu của Nguyễn Cảnh S; Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A5s màu đen, bên trong chứa sim số 0353039342 thu giữ của Lê Văn S; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphonne 6plus màu vàng, bên trong chứa sim số 0378871846 thu giữ của Nguyễn Bá Ph. Các vật chứng này hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng Chi cục thi hành án Dân sự huyện Yên Thành. Đặc điểm cụ thể các vật chứng có tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Yên Thành theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Công an và chi cục Thi hành án Dân sự huyện Yên Thành ngày 19 tháng 4 năm 2021. Trả lại 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha jupiter 5B95 màu đỏ đen, BKS 37U2- 0610 xe đã qua sử dụng cho Phan Văn Nh.
Tuyên tịch thu tiêu hủy 7,8 kg pháo loại 36 quả (hiện số pháo này đang được lưu tại kho vật chứng của cơ quan CSĐT Công an huyện Yên Thành, Cơ quan CSĐT huyện Yên Thành có trách nhiệm giao lại cho Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Yên Thành tiêu hủy theo quy định của pháp luật khi bản án có hiệu lực pháp luật).
Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo do các bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, hộ cận nghèo.
Truy thu tại bị cáo Phan Văn Nh số tiền 900.000đ (chín trăm nghìn đồng); truy thu tại bị cáo Trần Tuấn A số tiền 500.000đ (năm trăm nghìn đồng).
Về án phí: Áp dụng điều 136 BLTTHS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo Phan Văn Nh, Nguyễn Cảnh S, Nguyễn Thọ C, Trần Tuấn A mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ tiền án phí HSST.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt các bị cáo, người đại diện theo pháp luật cho các bị cáo Trần Tuấn A và Nguyễn Thọ C, người bào chữa cho hai bị cáo Trần Tuấn A và Nguyễn Thọ C, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người đại diện hợp pháp cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Báo cho các bị cáo, người đại diện hợp pháp cho các bị cáo, người bào chữa cho các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người đại diện hợp pháp cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 51/2021/HSST ngày 28/05/2021 về tội buôn bán hàng cấm
Số hiệu: | 51/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/05/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về