TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 51/2021/HS-PT NGÀY 27/04/2021 VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC
Ngày 27 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 30/2021/TLPT-HS ngày 25/02/2021 đối với bị cáo Lê Hải N, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 186/2020/HS-ST ngày 30/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng.
* Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Lê Hải N, sinh năm 1979; nơi sinh: Lâm Đồng; nơi ĐKHKTT và cư trú: Xóm 2, thôn ĐN, xã NG, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Huy Th, sinh năm 1950; con bà: Phạm Thị H, sinh năm 1952; vợ: Phan Thị D, sinh năm 1979; con: Có 02 người con, con lớn sinh năm 2015, nhỏ sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân:
Tại bản án số 47/HSST ngày 24/5/2001 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp tài sản”, bị cáo chấp hành xong vào tháng 11 năm 2003; Bản án số 06/2008/HSPT ngày 16/01/2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm bản án số 79/2007/HSST ngày 08/11/2007 của Tòa án nhân dân huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 09 tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”, bị cáo chấp hành xong vào tháng 04 năm 2009 và Bản án số 36/2008/HSST ngày 20/6/2008 của Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng xử phạt 5.000.000đ (năm triệu đồng) về tội “Đánh bạc”, bị cáo chấp hành xong vào ngày 01/9/2008; bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam, hiện đang được tại ngoại. Có mặt.
* Các bị cáo trong vụ án không kháng cáo:
1. Họ và tên: Trần Bảo Ng, sinh năm 1983; nơi sinh: Lâm Đồng; nơi cư trú:
Xóm 2, thôn ĐN, xã NG, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.
2. Họ và tên: Phạm Phú Kh, sinh năm 1978; nơi sinh: Lâm Đồng; nơi cư trú:
Xóm 2, thôn ĐN, xã NG, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.
3. Họ và tên: Ngô Thị H, sinh năm 1962; nơi sinh: Lâm Đồng; nơi cư trú: Số nhà 544, Quốc lộ 20, tổ 26, thị trấn Liên Nghĩa, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.
4. Họ và tên: Đinh Thị Hồng D, sinh năm 1988; nơi sinh: Lâm Đồng; nơi cư trú: Thôn Hiệp Thuận, xã Ninh Gia, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.
5. Họ và tên: Vũ Thị Thúy H, sinh năm 1971; nơi sinh: Lâm Đồng; nơi cư trú: thôn Hiệp Thuận, xã Ninh Gia, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.
6. Họ và tên: Nguyễn Thị Hồng Tr, sinh năm 1991; nơi sinh: Lâm Đồng; nơi cư trú: Thôn Hiệp Thuận, xã Ninh Gia, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.
* Người làm chứng:
- Bà Lê Thị T, sinh năm 1965; nơi cư trú: 190 thôn Phú An, xã Phú hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.
- Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1975; nơi cư trú: Thôn Hiệp Thuận, xã Ninh Gia, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 14 giờ 30 phút ngày 01/5/2020, Công an huyện Đức Trọng bắt quả tang tại khu vực đồi núi thuộc thôn Phú An, xã Phú Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng các đối tượng đang đánh bạc ăn tiền dưới hình thức đánh xóc dĩa bao gồm: Phạm Phú Kh, Đinh Thị Hồng D, Nguyễn Thị Hồng Tr, Ngô Thị H, Nguyễn Thị H, Vũ Thị Thúy H, Lê Thị T, Trần Bảo Ng. Thu giữ tiền trên sòng bạc là 8.200.000đ, các dụng cụ phục vụ việc đánh bạc bao gồm: 02 dĩa sứ, 08 con vị, một bộ bài tây, 01 bảng ghi senko, 01 tấm bạt hình chữ nhật, 01 búa gỗ, 01 đục vị, 01 thớt gỗ.
Quá trình điều tra xác định Lê Hải N là người chuẩn bị các đồ vật gồm bạt, chén dĩa, dụng cụ đục quân vị, bài tây tổ chức cho các con bạc đến sòng bạc tại khu vực đồi thông thuộc thôn Phú An, xã Phú Hội, huyện Đức Trọng để tham gia chơi xóc đĩa ăn thua bằng tiền mặt. Nguyên tập hợp các con bạc đến tham gia và tiến hành thu xâu mỗi người tham gia chơi bạc từ 100.0000đ đến 200.000đ tùy thuộc vào từng con bạc đánh lớn hay nhỏ. Trong ngày 01/5/2020, Nguyên đã thu xâu được số tiền khoảng 700.000đ của các con bạc tham gia chơi. Sòng bạc này có khoảng gần 20 người tham gia chơi khi bị bắt quả tang thì Nguyên cùng một số con bạc bỏ chạy thoát được. Trần Bảo Ng tham gia giúp sức cho Lê Hải N tổ chức sòng bạc, Nguyên phân công cho Ngọc ngồi xóc dĩa phục vụ các con bạc đặt tiền ăn thua, kết thúc việc đánh bạc Nguyên sẽ chia tiền xâu cho Ngọc số tiền là 300.000đ (ba trăm ngàn đồng).
Vật chứng của vụ án thu giữ bao gồm:
- Tiền trên sòng bạc là 8.200.000đ.
- Tiền trong người của Ngô Thị H số tiền 300.000đ, số tiền này Hường dùng vào mục đích đánh bạc.
- Các dụng cụ phục vụ việc đánh bạc bao gồm: 02 dĩa sứ, 08 con vị, một bộ bài tây, 01 bảng ghi senko, 01 tấm bạt hình chữ nhật, 01 búa gỗ, 01 đục vị, 01 thớt gỗ.
Như vậy tổng số tiền đánh bạc trong vụ án bị thu giữ là 8.500.000đ (tám triệu năm trăm ngàn đồng).
Hiện tất cả số tiền đã thu giữ ở trên và vật chứng Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Trọng đã chuyển giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Trọng chờ xử lý.
Quá trình điều tra Lê Thị T và Nguyễn Thị H khai nhận đến sòng bạc để đòi tiền nợ từ những người tham gia đánh bạc, không thừa nhận tham gia đánh bạc, không có căn cứ cơ sở để chứng minh T và H có tham gia đánh bạc.
Tại bản cáo trạng số 190/CT - VKS ngày 11 tháng 11 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Trọng đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng để xét xử đối với các bị cáo: Lê Hải N, Trần Bảo Ng về tội “Tổ chức đánh bạc” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 322 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và truy tố các bị cáo: Phạm Phú Kh, Đinh Thị Hồng D, Vũ Thị Thúy H, Ngô Thị H, Nguyễn Thị Hồng Tr về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại bản án số 186/2020/HS-ST ngày 30/12/2020 của Toà án nhân dân huyện Đức Trọng đã xử;
Tuyên bố các bị cáo Lê Hải N, Trần Bảo Ng phạm tội “Tổ chức đánh bạc”; các bị cáo Phạm Phú Kh, Đinh Thị Hồng D, Vũ Thị Thúy H, Ngô Thị H, Nguyễn Thị Hồng Tr phạm tội “Đánh bạc”.
- Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 322; Điều 17; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Lê Hải N 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt giam chấp hành án.
- Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 322; Điều 17; Điều 35; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Trần Bảo Ng 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng) để sung ngân sách nhà nước.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 17; Điều 35; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Phạm Phú Kh 40.000.000đ (bốn mươi triệu đồng) để sung ngân sách nhà nước.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 17; Điều 35; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Đinh Thị Hồng D 40.000.000đ (bốn mươi triệu đồng) để sung ngân sách nhà nước.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 17; Điều 35; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Vũ Thị Thúy H 40.000.000đ (bốn mươi triệu đồng) để sung ngân sách nhà nước.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 17; Điều 35; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Hồng Tr 40.000.000đ (bốn mươi triệu đồng) để sung ngân sách nhà nước.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 17; Điều 36; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Ngô Thị H 18 (mười tám) tháng cải tạo không giam giữ, được trừ vào thời gian tạm giữ từ ngày 01/5/2020 đến ngày 07/5/2020, là 07 ngày, quy đổi thành 21 ngày cải tạo không giam giữ. Buộc bị cáo Ngô Thị H phải chấp hành 17 tháng 09 ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ được tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.
Giao bị cáo Hường cho Ủy ban nhân dân thị trấn Liên Nghĩa, huyện Đức Trọng, giám sát, giáo dục, gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian cải tạo không giam giữ.
Ngoài ra, bản án còn tuyên phạt bổ sung đối với bị cáo Hường, tuyên xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 12/01/2021 bị cáo Lê Hải N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo không thắc mắc, khiếu nại nội dung bản án sơ thẩm và khai nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo, đồng thời giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Các đối tượng tham gia đánh bạc đã bị xét xử có mặt tại phiên toà phúc thẩm cũng thừa nhận khoảng 14 giờ 30 phút ngày 01/5/2020 có khoảng 15 người tham gia đánh bạc nhưng khi Công an bắt quả tang thì một số người tham gia đánh bạc đã bỏ chạy, chỉ bắt được một số người với số tiền trên chiếu bạc là 8.200.000 đồng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng phát biểu ý kiến: Đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo; sửa bản án sơ thẩm, áp dụng thêm cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ theo điểm t khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, giảm cho bị cáo 06 tháng tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo và các chứng cứ có trong hồ sơ, có đủ cơ sở kết luận: Ngày 01/5/2020 bị cáo Lê Hải N đã tổ chức cho khoảng hơn 10 người tham gia chơi xóc đĩa ăn thua bằng tiền mặt, thuê Trần Bảo Ng làm người xóc dĩa và tiến hành thu xâu của những người tham gia chơi bạc tại khu vực đồi núi thuộc thôn Phú An, xã Phú Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng. Đến khoảng 14 giờ 30 phút ngày 01/5/2020, Công an huyện Đức Trọng bắt quả tang các đối tượng Phạm Phú Kh, Đinh Thị Hồng D, Nguyễn Thị Hồng Tr, Ngô Thị H, Nguyễn Thị H, Vũ Thị Thúy H, Lê Thị T, Trần Bảo Ng đang đánh bạc ăn tiền dưới hình thức đánh xóc đĩa với tổng số tiền các bị cáo dùng để đánh bạc là 8.500.000 đồng, các đối tượng đánh bạc khác không rõ nhân thân, lai lịch đã chạy thoát.
Đối chiếu lời khai nhận tội của các bị cáo, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, biên bản khám nghiệm hiện trường và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố các bị cáo Lê Hải N, Trần Bảo Ng phạm tội “Tổ chức đánh bạc”, theo khoản 1 Điều 322 của Bộ luật Hình sự; các bị cáo Phạm Phú Kh, Đinh Thị Hồng D, Vũ Thị Thúy H, Ngô Thị H, Nguyễn Thị Hồng Tr phạm tội “Đánh bạc”, theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo gửi trong thời hạn và đúng quy định nên được xem xét.
Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự công cộng được pháp luật bảo vệ, là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội khác, bị cáo nhận thức rõ Nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi đánh bạc thắng thua bằng tiền nhưng vẫn cố tình thực hiện, thể hiện sự coi thường pháp luật. Nhân thân của bị cáo Lê Hải N đã từng bị xử phạt về tội “Đánh bạc” và các tội phạm khác nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học tu dưỡng, rèn luyện nay lại tiếp tục phạm tội. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, xem xét nhân thân, tính chất, mức độ hành vi phạm tội để xử phạt bị cáo mức như trên là phù hợp. Tại giai đoạn phúc thẩm, bị cáo xuất trình chứng cứ mới là bị cáo đã tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm có xác nhận của Công an tỉnh Lâm Đồng nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo. Do vậy, chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm, giảm hình phạt cho bị cáo như đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng tại phiên tòa là phù hợp.
[3] Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận, nên bị cáo Lê Hải N không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Hải N, sửa Bản án sơ thẩm.
Tuyên bố bị cáo Lê Hải N phạm tội “Tổ chức đánh bạc”.
Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 322; Điều 17; Điều 38; các điểm s, t khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Lê Hải N 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam chấp hành án.
2. Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo Lê Hải N không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 51/2021/HS-PT ngày 27/04/2021 về tội tổ chức đánh bạc
Số hiệu: | 51/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/04/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về