TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 51/2021/HS-PT NGÀY 06/05/2021 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM
Ngày 06/5/2021, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 313/2020/TLPT-HS ngày 01 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo: Tăng Như K do có kháng cáo của bị cáo Tăng Như K đối với bản án hình sự sơ thẩm số 61/2020/HS-ST ngày 21/09/2020 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang.
- Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Tăng Như K (tên gọi khác: Dương Duy K), sinh năm 1968; nơi cư trú: Thôn G, xã L, huyện L, tỉnh Bắc Giang; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: 10/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tăng Văn G (đã chết)và bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1933; vợ là Trương Thị T (ly thân); có 02 con, lớn sinh năm 1994, nhỏ sinh năm 2000; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 15/12/2019 đến ngày 24/12/2019. Có mặt.
Ngoài ra trong vụ án còn có người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan do không có kháng cáo, kháng nghị và không liên quan đến kháng cáo, kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 22 giờ ngày 14/12/2019, Công an huyện L bắt quả tang tại nhà ở của Tăng Như K, sinh năm 1968 ở thôn G, xã L, huyện L, tỉnh Bắc Giang 03 đôi nam nữ đang thực hiện hành vi mua bán dâm.
Tại phòng cuối cùng bên trái hướng bên phải từ cửa vào Quàng Thị S, sinh năm 1993 ở bản P, xã C, huyện T, tỉnh Điện Biên đang bán dâm cho đối tượng tự khai Vũ Văn Q, sinh năm 1992 ở thôn Đ, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang.
Tại phòng đầu tiên hướng bên trái Quàng Thị T, sinh năm 1991 ở bản Pú B, xã C, huyện T, tỉnh Điện Biên đang bán dâm cho đối tượng Hà Văn S, sinh năm 1976 ở thôn A, xã V, huyện L, tỉnh Bắc Giang.
Tại phòng tầng 02 hướng bên trái từ cửa vào Quàng Thị M, sinh năm 1997 ở bản P, xã M, huyện T, tỉnh Sơn La đang bán dâm cho đối tượng tự khai Nguyễn Văn H, sinh năm 1977 ở thôn Đ, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang.
Vật chứng thu giữ: 01 vỏ bao cao su, nhãn hiệu ONDOM và 01 chiếc bao cao su đã qua sử dụng tại đầu giường ngủ phòng cuối cùng bên trái hướng bên phải từ cửa vào; 01 vỏ bao cao su nhãn hiệu SURE và 01 chiếc bao cao su đã qua sử dụng tại đầu giường phòng ngủ tầng 02 hướng bên trái từ cửa vào.
Khám xét khẩn cấp nơi ở của Tăng Như K thu giữ: 01 túi bóng màu trắng bên trong đựng 130 chiếc bao cao su nhãn hiệu CONDOM chưa qua sử dụng tại đỉnh chạn nhà bếp; Số tiền 400.000 đồng do K tự nguyện giao nộp.
Căn cứ vào lời khai của Quàng Thị S, Quàng Thị T và Quàng Thị M ngày 15/12/2019, Cơ quan điều tra Công an huyện L đã ra Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Tăng Như K.
Tại Cơ quan điều tra Tăng Như K khai nhận:
Tăng Như K hiện đang ở một mình tại thôn G, xã L, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Do muốn kiếm thêm thu nhập nên K đã nảy sinh ý định tìm nhân viên để hoạt động bán dâm tại nhà. Khoảng đầu tháng 12/2019, biết K có nhu cầu tuyển nhân viên nên Quàng Thị T và Quàng Thị S đến gặp K đặt vấn đề làm gái bán dâm cho K, K đồng ý. Ngày 14/12/2019 thông qua mối quan hệ xã hội thì K trực tiếp gặp và đón Quàng Thị M về làm nhân viên cho K. Giữa K với Tiện, Son và Mai có thỏa thuận nếu có khách mua dâm thì Tiện, Son, Mai bán dâm với giá 200.000 đồng/1người/1lần bán dâm, tiền bán dâm do K trực tiếp thu hoặc do T, S, M thu, sau đó sẽ chia theo tỷ lệ 50/50 (mỗi bên được hưởng 100.000 đồng). T, S, M chỉ được bán dâm tại nhà ở của K và không được đi bán dâm ở nơi khác nếu không được sự đồng ý của K.
Khoảng 21 giờ ngày 14/12/2019, khi K đang ở nhà thì có đối tượng Nguyễn Văn H và Vũ Văn Q đến đặt vấn đề mua dâm với nhân viên. Hải hỏi K "còn nhân viên không" thì K nói "còn hai nhân viên" và giá là "200.000 đồng/người". Sau đó Q có đưa 200.000 đồng cho K, K nhận tiền rồi K đưa Q xuống phòng bảo Quàng Thị S bán dâm cho Q. Khi K chỉ phòng cho Q đi lên thì H đặt vấn đề với K "cho em một đứa", K đồng ý. H đưa cho K 200.000 đồng rồi K bảo M lên tầng 2 bán dâm cho H. Đến khoảng hơn 21 giờ cùng ngày đối tượng Hà Văn S đến nhà K đặt vấn đề mua dâm, Sáng đi vào trong phòng gặp T thỏa thuận giá mua dâm thì T nói giá mua dâm là 200.000 đồng, Sáng đồng ý và bảo T là "cứ quan hệ tình dục xong S trả tiền", T đồng ý. Khi các đối tượng đang mua bán dâm thì bị Công an huyện L kiểm tra bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Quàng Thị T giao nộp số tiền 200.000 đồng do Sáng trả khi mua dâm.
Đối với Hà Văn S, Quàng Thị T, Quàng Thị S có hành vi mua bán dâm Công an huyện L đã ra Quyết định xử phạt hành chính. CònNguyễn Văn H, Vũ Văn Q và Quàng Thị M bị bắt quả tang, sau khi lấy lời khai Cơ quan điều tra trả tự do chờ xử lý.Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại địa phương song không có đối tượng nào có tên, tuổi, địa chỉ như H, Q, M khai nên Cơ quan điều tra chưa có căn cứ xử lý.
Về vật chứng vụ án gồm: Số tiền 600.000 đồng, 01 vỏ bao cao su nhãn hiệu ONDOM, 01 vỏ bao cao su nhãn hiệu SURE, 02 chiếc bao cao su đã qua sử dụng, 01 túi bóng màu trắng bên trong đựng 130 chiếc bao cao su nhãn hiệu CONDOM chưa qua sử dụng, Cơ quan điều tra chuyển xử lý cùng vụ án.
Tại Cơ quan điều tra Tăng Như K đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.
Tại bản cáo trạng số: 33/KSĐT ngày 24/4/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện L đã truy tố Tăng Như K phạm tội “Chứa mại dâm” theo điểm c khoản 2 Điều 327 của Bộ luật hình sự .
Với nội dung trên bản án hình sự sơ thẩm số 61/2020/HS-ST ngày 21/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang đã xét xử và quyết định:
Tuyên bố: Bị cáo Tăng Như K phạm tội “Chứa mại dâm”.
Căn cứ vào: Điểm c khoản 2Điều 327; Điều 38, điểm skhoản 1, khoản 2 Điều 51của Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Tăng Như K 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày thi hành án, được trừ số ngày tạm giữ từ 15/12/2019 đến 24/12/2019.
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về án phí, xử lý vật chứng và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi cấp sơ thẩm xét xử xong, ngày 02/10/2020 bị cáo Tăng Như K nộp đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.
Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Tăng Như K vẫn giữ nguyên kháng cáo với lý do: Bị cáo phạm tội lần đầu, do thiếu hiểu biết nên đã phạm tội, sức khỏe yếu, con cái không có ai ở nhà. Có xác nhận của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện L về việc lập công chuộc tội.
Đại diện VKSND tỉnh Bắc Giang thực hành quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích các tình tiết của vụ án, tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đưa ra đề nghị xem xét các vấn đề kháng cáo mà bị cáo nêu ra đã kết luận và đề nghị HĐXX áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Tăng Như K, sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo K, đề nghị xử phạt bị cáo K 04 năm 06 tháng tù.
Bị cáo K không có tranh luận gì.
Lời nói sau cùng của bị cáo Tăng Như K: đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và cho bị cáo hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo Tăng Như K nộp theo đúng các quy định của pháp luật nên được coi là đơn kháng cáo hợp pháp cần được chấp nhận để xem xét.
[2] Qua quá trình xét hỏi tại phiên tòa thấy đủ cơ sở xác định: Khoảng 21 giờ ngày 14/12/2019 tại nhà ở của Tăng Như K,sinh năm 1968 ở thôn D, xã L, huyện L, tỉnh Bắc Giang, K có hành vi chứa chấp cho Quàng Thị S bán dâm cho đối tượng tự khai Vũ Văn Q và Quàng Thị M bán dâm cho đối tượng tự khai Nguyễn Văn H. Hơn 21 giờ cùng ngày khi K đang chứa chấp cho Quàng Thị T bán dâm cho đối tượng Hà Văn S tại nhà ở, thu lời bất chính tổng số tiền 600.000 đồng thì bị Công an huyện L kiểm tra bắt quả tang cùng vật chứng.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo Tăng Như K thừa nhận toàn bộ hành vi như án sơ thẩm nêu là đúng, không oan. Bản án hình sự sơ thẩm số 61/2020/HS- ST ngày 21/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang xét xử bị cáo Tăng Như K phạm tội “Chứa mại dâm” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 327 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo Tăng Như K thấy:
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến đạo đức, thuần phong, mỹ tục, đời sống văn hóa, trật tự an toàn xã hội.Vì vậy, cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng, phòng ngừa chung.
Xét về nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo K thì thấy:
Bị cáo có nhân thân tốt, không có tình tiết tăng nặng TNHS.
Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; trong giai đoạn chuẩn bị xét xử bị cáo đã có công vận động đối tượng đang bị truy nã là Dương Thị T theo Quyết định truy nã 01/QĐTN-THAHS ngày 08/5/2020 của Cơ quan thi hành án hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn đến cơ quan Công an phường L, quận H, thành phố Hà Nội đầu thú để đi chấp hành án; mẹ bị cáo được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự là có căn cứ.
Trước khi xét xử phúc thẩm bị cáo đã xuất trình văn bản số 145/CSĐT ngày 19/01/2021 của Cơ quan CSĐT Công an huyện L, xác nhận và đề nghị bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS vì đã có thành tích giúp đỡ cơ quan Công an huyện L bắt giữ nhóm đối tượng có hành vi đánh bạc tại nhà Nông Văn C, sinh năm 1981 ở tổ dân phố M, thị trấn C, huyện L ngày 27/12/2020. Đây là tình tiết giảm nhẹ mới xuất hiện ở cấp phúc thẩm, cần áp dụng cho bị cáo theo điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự. Hơn nữa bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS, tại giai đoạn xét xử phúc thẩm bị cáo có thêm tình tiết giảm nhẹ mới, có căn cứ để áp dụng Điều 54 BLHS để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đối với bị cáo. Do vậy, HĐXX xét thấy có căn cứ và cần chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo K , sửa bản án sơ thẩm, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để đảm bảo chính sách khoan hồng của pháp luật.
[4] Về án phí hình sự phúc thẩm:
Do được chấp nhận một phần kháng cáo nên bị cáo Tăng Như K không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
[5] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo cáo Tăng Như K. Sửa bản án sơ thẩm.
Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 327; Điều 38, điểm s, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Tăng Như K 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Chứa mại dâm”. Thời hạn tù tính từ ngày thi hành án, được trừ số ngày tạm giữ từ 15/12/2019 đến 24/12/2019.
[2] Án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, bị cáo Tăng Như K không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 51/2021/HS-PT ngày 06/05/2021 về tội chứa mại dâm
Số hiệu: | 51/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/05/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về