Bản án 51/2021/HNGĐ-ST ngày 27/04/2021 về ly hôn giữa chị L và anh L

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲ HỢP – TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 51/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/04/2021 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ L VÀ ANH L

Ngày 27 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 23/2021/TLST – HNGĐ ngày 04 tháng 03 năm 2021 về "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con" theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2021/QĐXXST – HNGĐ ngày 16 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lang Thị L, sinh năm 1990.

Nơi cư trú: Bản Đ, xã C, huyện Q, tỉnh Nghệ An. (Có mặt).

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1993.

Nơi cư trú: Xóm M, xã M, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

Hiện đang chấp hành án tại KM, đội B, trại giam số B, huyện T, tỉnh Nghệ An (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn và tại biên bản ghi lời khai nguyên đơn chị Lang Thị L trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn L kết hôn vào ngày 28/11/2013, đăng ký kết hôn tại UBND xã M, huyện Q, tỉnh Nghệ An. Chị và anh Nguyễn Văn L do tính tình không hợp nhau nên vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Do vợ chồng không cùng quan điểm sống, thường hay tranh chấp, cãi vã lẫn nhau và anh L vi phạm pháp luật phải đi cải tạo nên vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2015 đến nay. Cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc và thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa nên yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh Nguyễn Văn L.

Về con chung: Chị và anh Nguyễn Văn L có một con chung là Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 26/3/2014. Nếu ly hôn, thì chị L xin được nuôi con và không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản: Chị Lang Thị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai thì bị đơn anh Nguyễn Văn L trình bày:

Về hôn nhân: Anh và chị Lang Thị L đăng ký kết hôn ngày 28/11/2013, đăng ký kết hôn tại UBND xã M, huyện Q, tỉnh Nghệ An. Anh và chị Lang Thị L do tính tình không hợp nhau nên vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Do vợ chồng không cùng quan điểm sống, thường hay tranh chấp, cãi vã lẫn nhau và anh vi phạm pháp luật phải đi cải tạo nên vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2015 đến nay. Anh L thấy tình cảm vợ chồng không còn nên việc chị L xin ly hôn thì anh L cũng đồng ý ly hôn với chị Lang Thị L.

Về con chung: Anh Nguyễn Văn L nhất trí với ý kiến của chị Lang Thị L là vợ chồng có một con chung Nguyễn Ngọc H(Hiện tại con đang ở cùng chị L), sinh ngày 26/3/2014. Nếu ly hôn, thì anh L đồng ý giao con cho chị L nuôi và tạm thời anh chưa phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị L.

Về tài sản: Anh Nguyễn Văn L không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Hợp phát biểu ý kiến:

+ Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến khi đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa thấy rằng, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký và nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị HĐXX áp dụng vào Điều 51; khoản 1 điều 56; các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, khoản 4 điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội, xử: Về hôn nhân: Cho chị Lang Thị L được ly hôn anh Nguyễn Văn L; Về con: Giao con chung Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 26/3/2014 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng và tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con đối với anh Nguyễn Văn L. Về tài sản: Chị L và anh L không yêu cầu giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét thêm; Về án phí: Chị L chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Chị Lang Thị L khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Nguyễn Văn L và yêu cầu về giao nuôi con. Vì vậy, quan hệ pháp luật tranh chấp cần giải quyết trong vụ án này được xác định là: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn với anh Nguyễn Văn L có đăng ký hộ khẩu thường trú tại xóm M, xã M, huyện Q, tỉnh Nghệ An nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Đối với bị đơn anh Nguyễn Văn L trong quá trình giải quyết vụ án thì anh L đang học tập và lao động tại trại giam số B, Bộ Công an (thuộc huyện T, tỉnh Nghệ An) và xin vắng mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và phiên hòa giải nên vụ án không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên toà anh Nguyễn Văn L cũng xin vắng mặt. Do đó căn cứ vào khoản 1 Điều 227; khoản 1 điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt anh Nguyễn Văn L.

[3] Về hôn nhân: Chị Lang Thị L và anh Nguyễn Văn L kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 28/11/2013, đăng ký kết hôn tại UBND xã M, huyện Q, tỉnh Nghệ An. Hôn nhân của chị L và anh L đảm bảo về điều kiện kết hôn và đúng nghi thức theo quy định của pháp luật nên là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, anh chị sống chung không hạnh phúc, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn và hai vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2015 cho đến nay. Quá trình giải quyết vụ án chị L vẫn giữ nguyên yêu cầu xin được ly hôn anh Nguyễn Văn L và anh L cũng đồng ý ly hôn. Xét thấy mâu thuẫn của vợ chồng thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, cần giải quyết cho chị Lang Thị L được ly hôn anh Nguyễn Văn L.

[5] Về con: Nếu ly hôn, chị Lang Thị L có nguyện vọng nuôi con và anh Nguyễn Văn L cũng đồng ý giao con chung cho chị L trực tiếp nuôi, thấy rằng: Căn cứ vào nguyện vọng của đương sự, xét hoàn cảnh, điều kiện để nuôi con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và hiện nay anh L đang học tập và lao động tại trại giam số B, Bộ Công an nên cần giao cháu là Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 26/3/2014 cho chị Lang Thị L trực tiếp nuôi dưỡng, kể từ tháng 4 năm 2021 và tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Nguyễn Văn L là hợp lý.

[6] Về tài sản: Chị Lang Thị L và anh Nguyễn Văn L không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét thêm.

[7] Về án phí: Chị Lang Thị L phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 1 Điều 227; khoản 1 điều 228; khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

Về hôn nhân: Cho chị Lang Thị L được ly hôn anh Nguyễn Văn L.

Về con: Buộc anh Nguyễn Văn L giao con chung Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 26/3/2014 cho chị Lang Thị L trực tiếp nuôi dưỡng, kể từ tháng 4 năm 2021 cho đến khi con đủ 18 tuổi (trưởng thành). Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Nguyễn Văn L. Bên không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Về án phí: Chị Lang Thị L phải chịu án phí DSST 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, được khấu trừ trong số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng chị Lang Thị L đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0001856 ngày 04 tháng 3 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳ Hợp.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn. Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 27/4/2021. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 51/2021/HNGĐ-ST ngày 27/04/2021 về ly hôn giữa chị L và anh L

Số hiệu:51/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳ Hợp - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về