Bản án 51/2020/HS-ST ngày 29/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C C, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 51/2020/HS-ST NGÀY 29/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện CC, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 53/2020/TL-HSST ngày 18 tháng 9 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 57/2020/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 09 năm 2020 đối với bị cáo:

Lương Anh T - sinh ngày 20 tháng 01 năm 2001 tại huyện CC, tỉnh NA. Tên gọi khác: Lương Văn T; Nơi cư trú: bản HĐ, xã ĐP, huyện CC, tỉnh NA; Nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: thái; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Văn H và bà Lô Thị B; Vợ, con: chưa có; tiền án: ngày 30/3/2018 bị Tòa án nhân dân Quận HK – Thành phố HN xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 12 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 10/10/2018, bị Tòa án nhân dân huyện CC, tỉnh NA xử phạt 8 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”, ngày 30/11/2018, bị Tòa án nhân dân huyện CC, tỉnh NA xư phạt 8 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”. Tổng hợp chung cho cả ba bản án là 20 tháng tù, đến ngày 10/4/2020 chấp hành xong hình phạt; Tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/7/2020 đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh NA.

- Người bị hại: Anh Lương Văn H, sinh năm 1962. Vắng mặt.

Địa chỉ: bản HĐ, xã ĐP, huyện CC, tỉnh NA.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Ngô Thúy H, sinh năm 1955. Vắng mặt.

Địa chỉ: K6, thị trấn CC, huyện CC, tỉnh NA

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 04 giờ ngày 09/7/2020, tại nhà của mình ở bản HĐ, xã ĐP, huyện CC, tỉnh NA, Lương Anh T lợi dụng bố mẹ của mình là ông Lương Văn H và bà Lô Thị Bàng đang ngủ say thì T đã lấy trộm chìa khóa xe máy hiệu YAMAHA SIRIUS màu đỏ, đen, biển kiểm soát: 37C1-017.31 rồi điều khiểm xe mô tô đó đi ra thị trấn CC, huyện CC, khi ra đến thị trấn CC, T điều khiển xe xuống xã TS, huyện AS, tỉnh NA để tìm tiệm cầm đồ nhằm cầm cố chiếc xe mô tô nhưng không có tiệm cầm đồ nào mở cửa, nên T điều khiểm xe quay lại thị trấn CC và gặp bà Ngô Thúy H, sinh năm 1955, trú tại K6, thị trấn CC, huyện CC tỉnh NA. T hỏi vay của bà H số tiền 1.500.000 đồng và để lại chiếc xe làm tin.

Ngày 09/7/2020, sau khi biết tin chiếc xe máy của mình bị con trai đem đi cầm cố tại nhà bà H. Ông H đã đến chuộc lại chiếc xe và viết đơn trình báo công an xã ĐP, huyện CC, tỉnh NA.

Đến ngày 12/7/2020, nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, Lương Anh T đã đến xã ĐP, huyện CC để đầu thú.

Tại kết luận giám định giá tài sản ngày 13/7/2020 của hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện CC, tỉnh NA kết luận: 01 chiếc xe máy hiệu YAMAHA SIRIUS màu đỏ - đen, BKS: 37C1-017.31 của ông Lương Văn H có trị giá là: 8.000.000 đồng.

Cáo trạng số: 56/CT-VKS-CC ngày 18/09/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện CC đã truy tố bị cáo Lương Anh T về tội “Trộm cắp tài sản" theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố, bản thân bị cáo tỏ ra ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện CC giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Lương Anh T về tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị HĐXX áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Lương Anh T mức án từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù; miễn áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo; Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi tố tụng và quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử:

- Trong quá trình điều tra: Cơ quan điều tra, Điều tra viên được phân công điều tra đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng về việc kiểm tra, xác minh, thu thập chứng cứ, lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm; lập hồ sơ vụ án; hỏi cung bị can; xử lý vật chứng; giao nhận các văn bản tố tụng đúng thời hạn theo quy định của pháp luật.

- Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện nghiêm túc hoạt động kiểm sát điều tra; giao nhận các văn bản tố tụng đúng thời hạn theo quy định của pháp luật; tham gia phiên tòa đúng thời gian, địa điểm; công bố bản cáo trạng; tham gia xét hỏi, luận tội, tranh luận và phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án đồng thời thực hiện việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án cũng như người tham gia tố tụng trong giai đoạn xét xử.

- Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Do các hành vi tố tụng và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên và Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đều tuân thủ quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nên hợp pháp và được sử dụng làm chứng cứ để Hội đồng xét xử xem xét.

[2] Về nội dung: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Lương Anh T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, vật chứng thu giữ, kết luận định giá và các chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ vụ án, phù hợp với cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 04 giờ ngày 09/7/2020, tại nhà ở của mình ở Bản HĐ, xã ĐP, huyện CC, tỉnh NA, Lương Anh T đã có hành vi lấy trộm chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại xe SIRIUS màu đỏ, đen, biển kiểm soát: 37C1-017.31 của ông Lương Văn H. Chiếc xe có giá trị tại thời điểm bị mất trộm là 8.000.000 đồng. Hành vi mà bị cáo thực hiện là lén lút, lợi dụng sơ hở của người bị hại để chiếm đoạt tài sản. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và tuổi chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý, phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Như vậy Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để kết tội bị cáo Lương Anh T phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất vụ án: Vụ án thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ; gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội, gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân. Bị cáo ý thức được hành vi của mình là trái pháp luật, nhưng do lười lao động, hám lợi bất chính và để có tiền tiêu xài bị cáo đã ngang nhiên trộm cắp tài sản của chính bố mẹ đẻ của mình, điều đó chứng tỏ bị cáo là người liều lĩnh, coi tH pháp luật nên cần phải xử phạt nghiêm minh cách ly ra khỏi xã hội một thời gian dài để bị cáo lao động cải tạo trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, sau khi phạm tội đã ra đầu thú, đó là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xét thấy cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là hình phạt tiền nhưng xét thấy bị cáo chưa có vợ con, sống phụ thuộc vào bố mẹ, tài sản riêng không có nên miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại ông Lô Văn H đã nhận lại tại sản, tại phiên toà ông H vắng mặt nhưng trong quá trình điều tra không yêu cầu bị cáo phải bồi tH gì thêm nên Hội đồng xét xử miễn xét.

Trong vụ án này còn có chị Ngô Thuý H là người đã cho Lương Anh T mượn 1.500.000 đồng và nhận chiếc xe do T trộm cắp mà có, về bản chất đây là hành vi cầm cố tài sản nhưng do chị H không biết chiếc xe máy đó do T trộm cắp nên không có cơ sở để xử lý hình sự, song cũng cần nhắc nhở chị H khi cầm cố tài sản cần tìm hiểu rõ nguồn gốc để tránh tiếp tay cho tội phạm. Về dân sự, tại phiên tòa chị H vắng mặt nhưng tại cơ quan điều tra chị không yêu cầu bị cáo phải bồi tH gì thêm nên miễn xét.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự:

Tuyên bố bị cáo Lương Anh T, tên gọi khác Lương Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Lương Anh T, tên gọi khác Lương Văn T 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/7/2020.

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban TH vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo Lương Anh T, tên gọi khác Lương Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh NA. Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

251
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 51/2020/HS-ST ngày 29/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:51/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Con Cuông - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về