Bản án 51/2020/HS-ST ngày 03/12/2020 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH A, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 51/2020/HS-ST NGÀY 03/12/2020 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Trong ngày 03 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:54/2020/TLST-HS ngày 21 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:62/2020/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

- Sơn Thế Q - sinh năm 1986; tên gọi khác: Không có; nơi sinh: Tại Bạc Liêu. Nơi cư trú: Số 5/94B ấp B, xã Đ, thành phố L, tỉnh Bạc Liêu; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Khơ me; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Sơn P và bà Quách Thị S; Bị cáo có vợ tên Lâm Thị Thanh T và 04 người con, lớn nhất sinh năm 2007, nhỏ nhất sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 17/8/2020 đến nay, hiện tại đang tại ngoại, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

Huỳnh Hoàng N, sinh năm: 1990, địa chỉ: Ấp B, xã H, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang. (Vắng mặt) Phùng Văn D, sinh năm 1974 (đã chết) Đại diện hợp pháp của bị hại D:

Lê Thị T, sinh năm: 1962, địa chỉ: Ấp N, xã T, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang. (Vắng mặt) Nguyễn Thị Mộng T, sinh năm: 1981, địa chỉ: Ấp X, xã LN, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang. (Vắng mặt) - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Hồ Hán N, sinh năm; 1970, địa chỉ: Số K, đường Hồ Thị K, khóm 2, phường 5, thành phố L, tỉnh Bạc Liêu. (Vắng mặt) Huỳnh Thị Út H, sinh năm: 1986, địa chỉ: Ấp Đ, xã ĐT, huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 12 giờ ngày 08/7/2020, tài xế Sơn Thế Q (sinh năm 1986, đăng ký thường trú tại ấp B, xã Đ, thành phố L, tỉnh Bạc Liêu) điều khiển xe ô tô khách biển số kiểm soát 94B-002.21 lưu thông trên Quốc Lộ 1, hướng từ xã Long Thạnh, huyện Phụng Hiệp về thị trấn Cái Tắc, huyện Châu Thành A. Khi đến km 2087+500, đoạn thuộc ấp Long An B, thị trấn Cái Tắc, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang, lúc này phía trước cùng chiều có xe mô tô biển số kiểm soát 65H1- 401.44 do Huỳnh Hoàng N (sinh năm 1990, đăng ký thường trú tại: ấp B, xã H, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang) điều khiển chở phía sau Phùng Văn D (sinh năm 1974, đăng ký thường trú tại: ấp A, xã H, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang). Quyền điều khiển xe ô tô 94B-002.21 vượt lên xe mô tô 65H1-401.44 nhưng xe ô tô đã va chạm vào gác chân và tay cầm bên trái xe mô tô 65H1-401.44 làm xe mô tô, Huỳnh Hoàng N và Phùng Văn D ngã xuống lộ. Hậu quả tai nạn: Huỳnh Hoàng N bị xây sát nhẹ, Phùng Văn D bị thương nặng được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa trung ương Cần Thơ đến 13 giờ 20 phút cùng ngày thì tử vong (Bút lục số:35-36; 57-72; 87-94).

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 50/20/TgT ngày 09/7/2020 của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế Hậu Giang đã giám định và kết luận: nguyên nhân tử vong của Phùng Văn D do mất máu cấp do thủng phổi (Bút lục số: 53-54).

Tại Biên bản khám nghiệm hiện trường vụ tai nạn giao thông đường bộ lập vào lúc 12 giờ 55 phút ngày 08/7/2020, thể hiện:

Tình trạng hiện trường: Vị trí xe ô tô khách biển số 94B-002.21 và xe 65H1- 401.44 còn nguyên vẹn, dấu vết còn nguyên vẹn, nạn nhân được đưa đi cấp cứu.

Hiện trường của đoạn đường nơi xảy ra tai nạn: Hiện trường vụ tai nạn giao thông đường bộ là một đoạn đường thẳng. Mặt đường rộng 9m30 được trãi bê tông nhựa bằng phẳng, giao thông được tổ chức một chiều có dãi phân cách bê tông xi măng ở giữa.

Chọn trụ điện 472PH/315 thuộc ấp Long An B, thị trấn Cái Tắc, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang làm điểm chuẩn.

Chọn hướng đi Long Thạnh đến Cái Tắc làm hướng chuẩn, chọn mép đường phải làm chuẩn.

Mô tả theo số thứ tự vị trí nạn nhân, phương tiện, tang vật, dấu vết: Sau khi tai nạn xảy ra, xe 65H1-401.44 nằm cặp mép đường phải. Xe 94B-002.21 nằm trên đường đầu xe hướng đến Cái Tắc, đuôi xe hướng về Long Thạnh.

Quá trình khám nghiệm hiện trường vị trí dấu vết thể hiện như sau:

Tâm trục trước xe 65H1-401.44 đo vuông góc mép đường phải là 0 mét 70.

Tâm trục sau xe 65H1-401.44 đo vuông góc mép đường phải là 0 mét 20, đo đến tâm trục sau bên phải xe 94B-002.21 là 31 mét 10, đo đến điểm cao nhất của vết máu là 1 mét 70.

Tâm trục trước bên phải xe 94B-002.21 đo vuông góc mép đường phải là 2 mét 10, đo vuông góc đến điểm chuẩn là 26 mét 40.

Tâm trục sau bên phải xe 94B-002.21 đo vuông góc mép đường phải là 2 mét 10.

Vết cày còn mới không liên tục để lại trên mặt đường cùng với vết màu xanh; đầu vết cày đo vuông góc mép đường phải là 1 mét 90, đầu vết cày đo đến gác chân giữa xe 65H1-401.44 là 12 mét 45, đầu vết cày đo đến vùng đụng là 3 mét 20.

Vết máu loang còn mới để lại trên mặt đường kích thước 1 mét 00 x 0 mét 70.

Vùng đụng đo vuông góc mép đường phải là 2 mét 40 (Bút lục số: 04-05).

Tại Phiếu kết quả xét nghiệm nồng độ cồn trong máu đối với Huỳnh Hoàng Ncủa Bệnh viện đa khoa Trung ương Cần Thơ thể hiện, kết quả xét nghiệm: Không có nồng độ cồn trong máu (Bút lục số: 120).

Tại Phiếu kết quả xét nghiệm nồng độ cồn trong máu đối với Phùng Văn D của Bệnh viện đa khoa Trung ương Cần Thơ thể hiện, kết quả xét nghiệm: Không có nồng độ cồn trong máu (Bút lục số: 121).

Tại biên bản về việc đo nồng độ cồn trong máu của người điều khiển phương tiện có liên quan đến tai nạn giao thông đường bộ, lập vào lúc 15 giờ 40 phút ngày 08/7/2020, thể hiện kết quả đo nồng độ cồn trong hơi thở của tài xế Sơn Thế Q thể hiện kết quả: Nồng độ cồn 0,000 mg/l (không có nồng độ cồn) (Bút lục số: 124- 125).

Quá trình điều tra xác định được nguyên nhân xảy ra vụ tai nạn giao thông đường bộ là do tài xế Sơn Thế Q điều khiển xe ô tô khách 94B-002.21 vượt xe mô tô 65H1-401.44 không báo hiệu xin vượt, vượt không đảm bảo an toàn dẫn đến va chạm làm Phùng Văn D bị tử vong.

Tại Cáo trạng số 53/CT-VKS-HCTA ngày 19/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang truy tố bị cáo Sơn Thế Quyền về tội: “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, bị cáo tự nguyện khắc phục hậu quả cho gia đình bị hại tổng số tiền 145.000.000 đồng. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Sơn Thế Q về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; sau khi gây tai nạn bị cáo cùng ông Hồ Hán N tự nguyện khắc phục hậu quả cho bị hại. Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng; trong thời gian tại ngoại bị cáo không có hành vi bỏ trốn hay vi phạm pháp luật. Vì vậy, bị cáo có đủ điều kiện được hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 2, Điều 3 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định về án treo nên đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo Sơn Thế Q từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù nhưng cho hưởng án treo. Thời hạn chấp hành hình phạt tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 03 năm 06 tháng – 04 năm, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (03/12/2020).

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Quá trình điều tra đã trả lại cho ông Hồ Hán N 01 xe ô tô khách biển số kiểm soát 94B-002.21, 01 giấy chứng nhận kiểm định xe ô tô 94B-002.21; trả lại bị cáo Sơn Thế Q 01 giấy chứng minh nhân dân số 385234911 mang tên Sơn Thế Q, trả lại cho chị Huỳnh Thị Út H 01 xe mô tô biển số kiểm soát 65H1-401.44. Việc lý là đúng quy định của pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Trả lại 01 Giấy phép lái xe hạng E mang tên Sơn Thế Q.

Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Ghi nhận sự thỏa thuận của bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại là tổng số tiền bồi thường 125.000.000 đồng, bị cáo đã bồi thường xong.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Tuy nhiên, đây là công việc nguồn thu nhập chính của bị cáo, ngoài công việc này bị cáo không có công việc gì khác nên đề nghị Hội đồng xét xử không cấm đảm nhiệm công việc của bị cáo.

Đại diện hợp pháp của bị hại Phùng Văn D là bà Lê Thị T, bà Nguyễn Thị Mộng T; bị hại Huỳnh Hoàng N; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Huỳnh Thị Út H, Hồ Hán N. Tất cả mọi người nêu trên vắng mặt nên không có lời trình bày tại phiên tòa.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo nên xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về hành vi, quyết định tố Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành A; Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành A; Điều tra viên; kiểm sát viên đã thực hiện theo quy định pháp luật về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hay khiếu nại hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của các cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[1.2] Đối với đại diện hợp pháp của bị hại Phùng Văn D là bà Lê Thị T, bà Nguyễn Thị Mộng T; bị hại Huỳnh Hoàng N; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Huỳnh Thị Út H, Hồ Hán N vắng mặt tại phiên Tòa, xét thấy lời khai của các đương sự đã thể hiện rõ trong hồ sơ nên việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến quá trình xét xử nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 292, Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự xét xử vắng mặt họ là phù hợp.

[2] Về nội dung vụ án: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Sơn Thế Q thừa nhận hành vi bị cáo thực hiện. Đối chiếu lời thừa nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và các tài liệu khác trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở chứng minh được như sau: Vào khoảng 12 giờ ngày 08/7/2020, bị cáo điều khiển xe ô tô khách biển số kiểm soát 94B-002.21 lưu thông trên Quốc Lộ 1, hướng từ xã Long Thạnh, huyện Phụng Hiệp đến thị trấn Cái Tắc, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang. Khi đến đoạn đường thuộc ấp Long An B, thị trấn Cái Tắc, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang, bị cáo đã điều khiển xe khách vượt lên xe mô tô biển kiểm soát 65H1-401.44 nhưng không tuân thủ quy định Luật giao thông đường bộ, cụ thể không bấm còi, không bật đèn xin vượt nên đã va chạm vào xe mô tô và làm xe môtô cho của anh Huỳnh Hoàng N và Phùng Văn D ngã xuống lộ. Kết quả anh Huỳnh Hoàng N bị xây sát nhẹ, Phùng Văn D bị thương nặng được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa trung ương Cần Thơ đến 13 giờ 20 phút cùng ngày thì tử vong.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 50/20/TgT ngày 09/7/2020 của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế Hậu Giang đã giám định và kết luận: nguyên nhân tử vong của Phùng Văn D do mất máu cấp do thủng phổi.

Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Sơn Thế Q phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự như luận tội của Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người đúng tội.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện thấy rằng:

Hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã. Bị cáo có năng lực hành vi nhận thức được khi tham gia giao thông phải tuân thủ quy định Luật giao thông đường bộ, cụ thể khi xe xin vượt phải báo hiệu đèn hoặc còi xin vượt và quan sát phía trước không có vật cản mới được phép vượt nhưng bị cáo đã không làm đúng quy định nêu trên mà đã cho xe khách vượt lên xe khác. Kết quả làm cho bị hại Phùng Văn D tử vong và bị hại Huỳnh Hoàng N bị xây sát nhẹ. Hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo tự nguyện bồi thường thiệt hại; ông Phùng Văn T (Đại diện theo pháp luật của Phùng Văn D trong quá trình điều tra) có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo; bị hại Huỳnh Hoàng N có yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Vì vậy, Hội đồng xét xử khi lượng hình cũng xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần trách nhiệm hình sự để thể hiện tính khoan hồng của pháp luật. Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng; có nhân thân tốt, gia đình bị cáo đông con (04 người con), bị cáo là lao động chính trong gia đình; trong thời gian tại ngoại bị cáo không có hành vi bỏ trốn hay vi phạm pháp luật nên không cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà giao cho gia đình và địa phương quản lý cũng đủ sức răn đe, giáo dục đồng thời tạo điều kiện để bị cáo lao động kiếm tiền nuôi và chăm sóc các con.

[4] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại:

[4.1] Trong quá trình điều tra, truy tố bị hại Huỳnh Hoàng N yêu cầu bị cáo bồi thường tổng số tiền 20.000.000 đồng và bị hại N đã nhận tiền xong, không yêu cầu gì thêm.

[4.2] Trong quá trình điều tra, truy tố đại diện hợp pháp của bị hại D yêu cầu bị cáo bồi thường tổng số tiền 125.000.000 đồng và gia đình bị hại D đã nhận tiền xong, không yêu cầu gì thêm.

[4.3] Trong quá trình điều tra, truy tố người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Hồ Hán N không yêu cầu bị cáo Sơn Thế Q trả lại số tiền ông đã bồi thường cho các bị hại nên không xem xét, giải quyết. Nếu sau này phát sinh tranh chấp sẽ khởi kiện thành vụ án khác.

[4.4] Trong quá trình điều tra, truy tố người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Huỳnh Thị Út H không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không xem xét, giải quyết.

[5] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Trả lại cho bị cáo 01 Giấy phép lái xe hạng E mang tên Sơn Thế Quyền.

Đối với xe ô tô 94B-002.21 do ông Hồ Hán N đứng tên chủ sở hữu và xe mô tô 65H1-401.44 là của chị Huỳnh Thị Út H đứng tên chủ sở hữu quá trình điều tra đã trả lại cho những người này xong. Việc xử lý của Cơ quan điều tra là đúng quy định của pháp luật.

[6] Về hình phạt bổ sung: Căn cứ theo quy định tại khoản 5 Điều 260 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 thì bị cáo còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Tuy nhiên, xét đây là công việc và nguồn thu nhập chính của bị cáo, ngoài công việc này bị cáo không có công việc gì khác nên để tạo điều kiện cho bị cáo lao động tạo ra nguồn thu nhập nuôi gia đình. Vì vậy, Hội đồng xét xử không cấm đảm nhiệm công việc đối với bị cáo.

[7] Từ những phân tích nêu trên xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ chấp nhận.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65, Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017; Điều 292, Điều 293, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 2, Điều 3 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định về án treo; Điều 14 Luật giao thông đường bộ.

Tuyên bố: Bị cáo Sơn Thế Q phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

1. Xử phạt: Bị cáo Sơn Thế Q 02 (hai) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 04 năm thời hạn tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (03/12/2020). Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Sơn Thế Q.

2. Giao bị cáo Sơn Thế Q cho Ủy ban nhân dân xã Đ, thành phố L, tỉnh Bạc Liêu quản lý và giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của luật thi hành án hình sự.

3. Trong thời gian thử thách, bị cáo Sơn Thế Q cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể buộc bị cáo Q phải chấp hành hình phạt tù của bản án này.

4. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 591 Bộ luật dân sự.

Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo bồi thường cho đại diện hợp pháp của bị hại Phùng Văn D số tiền 125.000.000 đồng; Ghi nhận sự tự nguyện bị cáo bồi thường cho bị hại Huỳnh H Nhật số tiền 20.000.000 đồng. Gia đình các bị hại đã nhận tiền xong, không yêu cầu gì khác.

Đối với ông Hồ Hán N không yêu cầu bị cáo Sơn Thế Q trả lại số tiền ông đã bồi thường cho các bị hại nên không đặt ra xem xét, giải quyết. Nếu sau này phát sinh tranh chấp sẽ khởi kiện thành vụ án khác.

5. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Trả lại cho bị cáo Sơn Thế Q 01 Giấy phép lái xe hạng E mang tên Sơn Thế Q.

6. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội; Buộc bị cáo Sơn Thế Q phải nộp 200.000đồng (Bằng chữ: Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

7. Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

8. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; Đại diện hợp pháp của bị hại D, bị hại N có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú theo quy định pháp luật; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần liên quan đến mình trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

393
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 51/2020/HS-ST ngày 03/12/2020 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:51/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành A - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:03/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về