TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC LINH, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 51/2020/HS-ST NGÀY 02/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 02 tháng 12 năm 2020, tại Tòa án nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 50/2020/TLST-HS, ngày 29/10/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 51/2020/QĐXXST-HS ngày 16/11/2020, đối với bị cáo:
Nguyễn Trung C, sinh năm 1989, tại: Bình Thuận.
Nơi cư trú: khu phố 2, thị trấn Võ Xu, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: lớp 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Trung Quá, sinh năm 1963 và bà Trần Thị Thỏa, sinh năm 1965, hiện cư trú tại khu phố 2, thị trấn Võ Xu, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận; gia đình có 04 anh chị em, bị cáo là con thứ 03 trong gia đình; bị cáo có vợ tên Phan Thị Thanh Trang, sinh năm 1987 và có 01 con tên Nguyễn Phan Hoàng Anh, sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không;
Nhân thân: Tại Bản án số 81/2011/HS-ST ngày 21/9/2011 của Tòa án nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước xử phạt Nguyễn Trung C 20 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 09/02/2012, đã được xóa án tích; Tại Quyết định số 1920/QĐ-UBND ngày 06/9/2012 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước đã quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa Nguyễn Trung C vào Trung tâm chữa bệnh – giáo dục - lao động xã hội tỉnh Bình Phước 18 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy;
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Đ từ ngày 25/8/2020 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.
Bị hại: Ông Nguyễn Thành Tụ, sinh năm 1987; nơi cư trú: số 324 đường Hùng Vương, khu phố 2, thị trấn Võ Xu, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận. Vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Trung C cư trú cùng đường Hùng Vương và cùng khu phố 2, thị trấn Võ Xu, huyện Đ với nhà ông Nguyễn Thành Tụ. Biết được nhà ông Tụ có trồng hoa lan trên cây Vú sữa trong vườn nên Nguyễn Trung C nảy sinh ý định trộm cắp để bán lấy tiền tiêu xài. Khoảng 03 giờ sáng ngày 25/8/2020, Nguyễn Trung C cầm theo 01 cây rựa cán bằng gỗ và 01 cây búa đi bộ qua nhà Nguyễn Thành Tụ với mục đích trộm cắp hoa lan. Nguyễn Trung C đi bộ đến cây Vú sữa, dùng rựa và tay kéo 01 bụi hoa lan Ngọc điểm và 01 bụi hoa lan Dendro trên cây Vú sữa rơi xuống đất. Nguyễn Trung C nghe tiếng chó sủa nên bỏ lại cây búa và đôi dép nhựa màu đỏ tại vườn nhà Nguyễn Thành Tụ, rồi ôm 02 bụi hoa lan và cây rựa bỏ chạy về nhà cất giấu. Trong lúc bỏ chạy, Nguyễn Trung C làm rơi 01 nhánh hoa lan Ngọc điểm trong vườn Nguyễn Thành Tụ. Khoảng 06 giờ sáng ngày 25/8/2020, Nguyễn Thành Tụ phát hiện mất hoa lan và nghi ngờ Nguyễn Trung C trộm cắp. Nguyễn Thành Tụ đến nhà Nguyễn Trung C phát hiện 02 bụi hoa lan của mình trong nhà C nên báo Công an. Qua khám xét, Cơ quan điều tra thu giữ tại nhà Nguyễn Trung C 01 bụi hoa lan Ngọc điểm có 07 nhánh, nặng 2,8kg; 01 bụi hoa lan Dendro có nhiều nhánh nhỏ, nặng 0,4kg; 01 cây rựa cán bằng gỗ, lưỡi bằng kim loại dài 60cm. Thu giữ tại nhà Nguyễn Thành Tụ 01 nhánh hoa lan Ngọc điểm nặng 0,3kg, 01 đôi dép nhựa màu đỏ và 01 cây búa cán bằng gỗ, đầu búa bằng kim loại dài 44cm.
Tại Kết luận định giá tài sản số 43/KL-HĐĐG ngày 26/8/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Đ xác định: 01 bụi hoa lan Ngọc điểm có 08 nhánh, nặng 3,1kg, lá dài nhất 38cm, trị giá 5.500.000 đồng; 01 bụi hoa lan Dendro, có nhiều nhánh nhỏ, nặng 0,4kg, trị giá 50.000 đồng. Tổng trị giá tài sản là 5.550.000 đồng.
Vật chứng thu giữ: Quá trình điều tra cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu giữ 01 cây búa dài 44cm; 01 cây rựa cán bằng gỗ dài 60cm; 01 đôi dép nhựa màu đỏ. Riêng 02 bụi hoa lan Ngọc điểm và Dendro, sau khi điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã trả lại cho bị hại Nguyễn Thành Tụ.
Tại Cáo trạng số 49/CT-VKS-HS ngày 28/10/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố Nguyễn Trung C về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ nêu tóm tắt nội dung vụ án, phân tích các nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nhân thân bị cáo, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo C mức án từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù.
Bị cáo Nguyễn Trung C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố và thừa nhận Bản cáo trạng truy tố đối với bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo biết hành vi phạm tội của mình là sai trái. Mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm về với gia đình, phụ giúp mẹ già.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng tại phiên tòa: Tại phiên tòa vắng mặt người bị hại Nguyễn Thành Tụ. Tuy nhiên, xét thấy lời khai của bị hại có trong hồ sơ vụ án đã rõ ràng nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án là đúng quy định tại Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự.
[2] Về hành vi và tội danh: Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với Bản kết luận điều tra của Cơ quan cảnh sát điều tra, Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Linh; phù hợp với lời khai của bị hại, cùng các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 03 giờ sáng ngày 25/8/2020, Nguyễn Trung C đã lén lút đột nhập vào sân vườn nhà ông Nguyễn Thành Tụ tại số nhà 324 đường Hùng Vương, khu phố 2, thị trấn Võ Xu, huyện Đức Linh, tỉnh B trộm cắp 01 bụi hoa lan Ngọc điểm có 08 nhánh, nặng 3,1kg và 01 bụi hoa lan Dendro có nhiều nhánh nhỏ, nặng 0,4kg. Tài sản trộm cắp trị giá 5.550.000 đồng. Do đó, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[3] Tính chất, mức độ nguy hiểm đối với hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo:
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, một mặt xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, mặt khác còn ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong việc quản lý tài sản của người dân. Ngoài ra, bị cáo là người có nhân thân xấu, đã từng bị xử phạt 20 tháng tù về tội trộm cắp tài sản; đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Cho nên, cần xem xét hình phạt nghiêm khắc và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài, tạo môi trường tốt để bị cáo cải tạo, học tập để trở thành công dân tốt, có ích cho gia đình, xã hội và nhằm phòng ngừa chung. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo; Vì vậy, cần lượng giảm cho bị cáo một phần hình phạt tương xứng với tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[4] Về hình phạt bổ sung: Lẽ ra, ngoài hình phạt chính cần phạt bị cáo một khoản tiền để sung ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản và thu nhập nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo là phù hợp.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại Nguyễn Thành Tụ đã nhận lại tài sản bị trộm cắp, không yêu cầu gì nên không xem xét.
[6] Về vật chứng: 01 cây búa dài 44cm và 01 cây rựa cán bằng gỗ dài 60cm, giá trị sử dụng của 02 vật chứng này còn lại thấp. Đây là công cụ mà bị cáo sử dụng vào việc phạm tội; 01 đôi dép nhựa không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy là đúng pháp luật.
[7] Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Nguyễn Trung Cường, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Đức Linh, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ được phân công điều tra, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận, nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Điểm a, c khoản 2 Điều 106; Khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XIV.
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Trung C phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt bị cáo: Nguyễn Trung C 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ (ngày 25/8/2020).
2. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 cây búa dài 44cm, 01 cây rựa cán bằng gỗ dài 60cm và 01 đôi dép nhựa màu đỏ.
(Các vật chứng nêu trên hiện đang được tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/11/2020 giữa Chi cục thi hành án dân sự và Công an huyện Đức Linh)
3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Trung C phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (02/12/2020); bị hại có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hoặc ngày bản án được niêm yết để Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.
Bản án 51/2020/HS-ST ngày 02/12/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 51/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đức Linh - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 02/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về