TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 51/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/08/2020 VỀ LY HÔN VÀ NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 21 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 197/2020/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 6 năm 2020 về việc “Ly hôn và nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2020/QĐST- HNGĐ ngày 30 tháng 7 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 38/2020/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị L, sinh năm 1988; đăng ký nhân khẩu thường trú: Thôn P, xã Đ, huyện K, thành phố Hải Phòng, có mặt.
- Bị đơn: Anh Trần Văn T, sinh năm 1988; đăng ký nhân khẩu thường trú: Thôn P, xã Đ, huyện K, thành phố Hải Phòng, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn xin ly hôn đề ngày 20 tháng 2 năm 2020 và các lời khai tại Tòa án nhân dân huyện K, nguyên đơn là chị Phạm Thị L trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị L và anh Trần Văn T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 21 tháng 8 năm 2009 tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện K, thành phố Hải Phòng. Sau khi kết hôn anh, chị cùng chung sống tại thôn P, xã Đ, huyện K, thành phố Hải Phòng cùng với bố mẹ chồng. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến khoảng đầu năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống gia đình cũng như trong làm ăn kinh tế dẫn đến hai vợ chồng thường xuyên xảy ra đánh cãi lẫn nhau ảnh hưởng đến cuộc sống chung cũng như việc nuôi dạy và chăm sóc con cái. Mâu thuẫn vợ chồng đã được hai bên gia đình hòa giải xong không cải thiện được mà ngày càng căng thẳng hơn. Chị L và anh T đã sống ly thân từ tháng 9/2012 cho đến nay. Trong thời gian sống ly thân chị L và anh T không còn quan tâm đến nhau nữa. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị L đề nghị Tòa án giải quyết cho chị L được ly hôn với anh Trần Văn T.
Về con chung: Chị L khai vợ chồng có 01 con chung là Trần Duy T1 sinh ngày 06 tháng 7 năm 2010, hiện cháu T1 đang do anh T nuôi dưỡng. Trường hợp ly hôn chị L đồng ý để anh T tiếp tục nuôi cháu T1 vì cháu T1 ở với anh T đã ổn định và được chăm sóc tốt về mọi mặt. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, chị L để tự thỏa thuận với anh T do vậy không đề nghị Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: Chị L khai vợ chồng không có tài sản chung, không đề nghị Tòa án giải quyết.
Bị đơn là anh Trần Văn T đã được Tòa án tống đạt Thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác nhưng đến ngày Tòa án mở phiên tòa xét xử lần thứ hai anh T vẫn không có mặt tại Tòa án để có ý kiến về yêu cầu xin ly hôn của chị Phạm Thị L.
Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật; bị đơn chưa chấp hành đúng quy định của pháp luật. Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị Phạm Thị L và anh Trần Văn T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng dụng khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội chấp nhận yêu cầu của chị Phạm Thị L được ly hôn anh T. Về con chung, giao con là Trần Duy T1 cho anh T nuôi dưỡng. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung do chị L và anh T tự thỏa thuận giải quyết nên đề nghị hội đồng xét xử không xem xét; về tài sản chung do chị L không yêu cầu giải quyết, nên đề nghị hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn là anh Trần Văn T đã được Toà án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng để anh T có mặt tại Toà án trình bày ý kiến của mình về việc chị Phạm Thị L có đơn xin ly hôn nhưng anh T vắng mặt tại phiên tòa hai lần không có lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn là anh Trần Văn T.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Phạm Thị L và anh Trần Văn T là hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến đầu năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống và làm ăn kinh tế dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi mắng xúc phạm nhau. Kết quả xác minh tại chính quyền địa phương và gia đình thể hiện mâu thuẫn vợ chồng giữa chị L và anh T phù hợp với lời khai của chị L. Chị L đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T, anh T không có mặt tại Tòa theo giấy triệu tập của Tòa án và vắng mặt tại các buổi hòa giải cũng như tại phiên tòa xét xử. Như vậy thể hiện tình trạng hôn nhân giữa chị L và anh T đã trầm trọng, khả năng vợ chồng đoàn tụ không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó hội đồng xét xử căn cứ Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của chị L xin ly hôn với anh T.
[3] Về con chung: Chị L và anh T có 01 con chung là Trần Duy T1 sinh ngày 06 tháng 7 năm 2010, trường hợp ly hôn chị L đồng ý để anh T tiếp tục nuôi dưỡng con chung. Việc giao con chưa thành niên cho ai nuôi cần xem xét để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chưa thành niên cũng như đảm bảo quyền được chăm sóc nuôi dưỡng con của cả cha, mẹ. Xét hiện nay, anh T đang trực tiếp nuôi dưỡng cháu T1, cháu vẫn được chăm sóc ổn định về mọi mặt và cháu T1 cũng có lời khai thể hiện có nguyện vọng được ở với bố. Như vậy, cần chấp nhận đề nghị của chị L, giao cháu T1 cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi, có khả năng lao động hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung do chị L đề nghị để tự thỏa thuận với anh T nên hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[4] Về tài sản chung: Chị L khai vợ chồng không có tài sản chung, không đề nghị Tòa án giải quyết, anh T vắng mặt và chưa có lời khai về tài sản chung vợ chồng, do vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[5] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:
1. Về hôn nhân: Chị Phạm Thị L được ly hôn anh Trần Văn T.
2. Về nuôi con chung:
2.1. Giao con chung Trần Duy T1 sinh ngày 06 tháng 7 năm 2010 cho anh Trần Văn T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu Trần Duy T1 đủ 18 tuổi, có khả năng lao động hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.
2.2. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Sau khi ly hôn chị Phạm Thị L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về tài sản chung: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
4. Về án phí: Chị Phạm Thị L phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí chị L đã nộp theo biên lai số 0009274 ngày 03/6/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện K, thành phố Hải Phòng. Chị L đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Chị Phạm Thị L có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh Trần Văn T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án 51/2020/HNGĐ-ST ngày 21/08/2020 về ly hôn và nuôi con khi ly hôn
Số hiệu: | 51/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kiến Thuỵ - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 21/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về