Bản án 51/2020/HNGĐ-ST ngày 16/12/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠNH HÓA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 51/2020/HNGĐ-ST NGÀY 16/12/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 16 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thạnh Hóa , tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 186/2020/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 11 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Kim Ngân, sinh năm 1991; Địa chỉ: Khu phố 3, thị trấn Thạnh Hóa, huyện Thạnh Hóa, tỉnh Long An.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1988; Địa chỉ: Khu phố 3, thị trấn Thạnh Hóa, huyện Thạnh Hóa, tỉnh Long An.

(Tất cả có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn – bà Nguyễn Thị Kim N trình bày: Bà Ngân và ông Nguyễn Văn Đ tổ chức lễ cưới năm 2007 và đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật tại Ủy ban nhân dân thị trấn Thạnh Hóa, huyện Thạnh Hóa, tỉnh Long An vào ngày 24/02/2009. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, tuy nhiên về sau thì phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân chủ yếu do tính tình hai bên không hợp nhau, vợ chồng thường xuyên cãi vã, tình cảm vợ chồng không còn hạnh phúc. Nay, bà Ngân nhận thấy mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, không thể hàn gắn, bà Ngân không còn tình cảm gì với ông Điền nên yêu cầu Tòa án giải quyết: Về hôn nhân, bà Ngân yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Văn Đ. Về con chung, tại đơn khởi kiện, bà Ngân yêu cầu được nuôi dưỡng 02 con chung tên Nguyễn Ngọc Mai Phương, sinh ngày 03/5/2015, Nguyễn Văn Tỷ, sinh ngày 12/12/2007, không yêu cầu ông Điền cấp dưỡng nuôi con. Tại phiên hòa giải và tại phiên tòa, bà Ngân thay đổi yêu cầu, bà Ngân yêu cầu nuôi con tên Nguyễn Ngọc Mai Phương, giao con Nguyễn Văn Tỷ cho ông Điền nuôi dưỡng. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con. Cháu Tỷ hiện đang sống với ông Điền, cháu Phương đang sống chung với bà Ngân. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Ngân không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn – ông Nguyễn Văn Đ trình bày :Ông Điền thống nhất với thời gian kết hôn, con chung, nợ chung, tài sản chung và mâu thuẫn như bà Ngân trình bày. Nay bà Ngân yêu cầu ly hôn, ông Điền không đồng ý ly hôn vì ông còn yêu thương vợ con, không muốn các con mất đi tình cảm của cha lẫn mẹ. Ông Điền thừa nhận có đi chơi, nhưng rất ít. Mỗi lần đi chơi về, bà Ngân có chửi mắng, ông Điền có giận lên và nói nặng vài câu. Ông Điền có đuổi bà Ngân ra khỏi nhà nhưng do bức xúc và nhậu say không làm chủ bản thân. Mâu thuẫn vợ chồng không trầm trọng.

Nếu Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Ngân, ông Điền thống nhất với ý kiến của bà Ngân về việc có 02 con chung tên Nguyễn Ngọc Mai Phương, sinh ngày 03/5/2015, và Nguyễn Văn Tỷ, sinh ngày 12/12/2007. Ông Điền đồng ý nuôi dưỡng con Nguyễn Văn Tỷ, giao con Nguyễn Ngọc Mai Phương cho bà Ngân theo yêu cầu của bà Ngân và không yêu cầu bà Ngân phải cấp dưỡng nuôi con.Về tài sản chung và nợ chung, ông Điền thống nhất không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu toàn bộ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Bà Nguyễn Thị Kim N và ông Nguyễn Văn Đ đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật tại Ủy ban nhân dân thị trấn Thạnh Hóa, huyện Thạnh Hóa vào năm 2009, là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Bà Ngân khởi kiện yêu cầu ly hôn, giải quyết vấn đề con chung, đây là quan hệ pháp luật được quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình.

[2] Về hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị Kim N và ông Nguyễn Văn Đ:

Qua quá trình hòa giải và trình bày của các đương sự tại phiên tòa, xét thấy, bà Ngân và ông Điền đã có thời gian dài chung sống. Tuy nhiên, ông Điền và bà Ngân có những mâu thuẫn không thể hòa giải. Do nhiều lần bị ông Điền đuổi ra khỏi nhà nên bà Ngân bị tổn thương, không còn tình cảm với chồng. Hiện nay bà Ngân đã đưa con gái Nguyễn Ngọc Mai Phương về nhà mẹ ruột sống, không muốn hàn gắn với chồng. Ông Nguyễn Văn Đ không đồng ý ly hôn do còn thương vợ. Tuy nhiên, tình cảm vợ chồng phải xuất phát từ hai phía. Bản thân ông Điền cũng thừa nhận, nhiều lần vợ chồng cự cãi có đuổi bà Ngân đi. Như vậy, trong mối quan hệ vợ chồng, ông Điền thiếu sự tôn trọng, yêu thương đối với bà Ngân nên việc ông Điền cho rằng còn thương vợ là không thuyết phục. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của bà Ngân có cơ sở chấp nhận.

Về con chung: Bà Ngân yêu cầu được nuôi con Nguyễn Ngọc Mai Phương, sinh ngày 03/05/2015, giao con Nguyễn Văn Tỷ, sinh ngày 12/12/2007 cho ông Điền nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng nuôi con. Yêu cầu của bà Ngân không trái pháp luật và ông Điền không phản đối nên được chấp nhận.

Về chia tài sản chung, nợ chung:Bà Ngân và ông Điền không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề cập.

[3] Về án phí: Bà Nguyễn Thị Kim Nphải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm sung vào công quỹ Nhà nước theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Ông Nguyễn Văn Đ không phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 28, 35, 39 và Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Kim N

1. Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Kim N được ly hôn với ông Nguyễn Văn Đ.

2. Về con chung: Giao con Nguyễn Ngọc Mai Phương, sinh ngày 03/5/2015 cho bà Nguyễn Thị Kim N nuôi dưỡng (Hiện con Nguyễn Ngọc Mai Phương đang sống với bà Ngân). Giao con Nguyễn Văn Tỷ, sinh ngày 12/12/2007 cho ông Nguyễn Văn Đ nuôi dưỡng (Hiện con Nguyễn Văn Tỷ đang sống với ông Điền), không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Kim N phải chịu 300.000đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm sung vào công quỹ Nhà nước. Khấu trừ số tiền 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0003524 ngày 03 tháng 11năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạnh Hóa sang thi hành án phí. Bà Ngân không phải nộp thêm.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơncó quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

5. Về việc thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 51/2020/HNGĐ-ST ngày 16/12/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:51/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạnh Hóa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về