TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 51/2019/HS-PT NGÀY 05/03/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 05 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang, mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 22/2019/TLPT-HS ngày 07 tháng 01 năm 2019 đối với các bị cáo Lê Quang Q và Phạm Hữu N. Do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án số 43/2018/HSST ngày 28/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.
Các bị cáo kháng cáo:
1. Lê Quang Q (P), sinh năm 1996; Giới tính: Nam; Cư trú: ấp M.T, xã Đ.M, huyện T.S, tỉnh A.G; Nghề Nghiệp: Không; Trình độ học vấn: Lớp 9/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Đạo Cao Đài; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Lê Thanh V, sinh năm 1974; Mẹ: Phạm Thị K, sinh năm 1974.
- Tiền án, tiền sự: Chưa.
- Bị cáo bị tạm giam từ ngày 22/3/2018 đến nay.
- Bị cáo có mặt tại phiện tòa.
2. Phạm Hữu N (Bé), sinh ngày 30/01/1998; Giới tính: Nam; Cư trú: ấp M.T, xã Đ.M, huyện T.S, tỉnh A.G. Nghề Nghiệp: Không; Trình độ học vấn: Lớp 6/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Đạo Hòa Hảo; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Phạm Văn N, sinh năm 1974; Mẹ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1971.
- Tiền án, tiền sự: Chưa.
- Bị cáo bị tạm giam từ ngày 22/3/2018 đến nay.
- Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
* Người bào chữa: Luật sư Nguyễn Thanh Tùng – Văn phòng Luật sư Phương Tùng, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh An Giang bào chữa cho bị cáo Phạm Hữu N. (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ ngày 22/3/2018, Lê Quang Q điện thoại cho người đàn ông không rõ họ tên, địa chỉ ở thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang mua ma túy để bán, lúc này Phạm Hữu N đi bộ đến gặp Q nghe Q điện thoại lấy ma túy và Q nói N đi lấy ma túy về sử dụng nên N đồng ý. Sau đó, Q điều khiển xe mô tô biển số 67B1-540.20 của Q chở N đến quán cà phê N7 ở thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang uống nước. Tại đây, Q để 1.000.000 đồng vào trong vỏ thuốc hiệu Jet rồi để lên bàn uống nước, sau đó có một người thanh niên không rõ họ tên, địa chỉ đến lấy vỏ thuốc hiệu Jet của Q rồi để lại một vỏ thuốc hiệu Jet khác lên bàn bỏ đi. N cầm vỏ thuốc lắc nghe tiếng kêu và biết bên trong có ma túy, nên cất giấu vào trong áo khoác trên vai trái. Sau đó, Q điều khiển xe chở N về đến xã Vĩnh Trạch, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang thì bị lực lượng công an huyện Thoại Sơn bắt quả tang cùng vật chứng.
Quá trình điều tra, Q khai nhận đã nhiều lần mua ma túy của người đàn ông ở thành phố Long Xuyên rồi bán ma túy nhiều lần cho nhiều người, cụ thể:
- Lần 1: Vào ngày 13/8/2017, Nguyễn Tấn Đ điện thoại cho Q mua 300.000 đồng ma túy, Đ điều khiển xe mô tô một mình đến nhà của Q lấy ma túy và đưa tiền cho Q.
- Lần 2: Khoảng 18 giờ (không rõ ngày), tháng 12/2017, Trương MinhT điện thoại cho Q mua 500.000 đồng ma túy, T một mình đến nhà của Q lấy ma túy và đưa tiền cho Q.
- Lần 3: Khoảng cuối tháng 12/2017, Vũ Ngọc A điện thoại cho Q mua 300.000 đồng ma túy, Ngọc A một mình đến nhà của Q lấy ma túy và đưa tiền cho Q.
- Lần 4: Khoảng tháng 3/2018, Mai Tấn S điện thoại cho Q mua 400.000 đồng ma túy, S điều khiển xe mô tô một mình đến nhà của Q lấy ma túy và đưa tiền cho Q.
Căn cứ Kết luận giám định số 164/KLGT-PC54 ngày 25/3/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh An Giang, kết luận: Tinh thể màu trắng gửi đến giám định là ma túy, loại: Methamphetamine, có khối lượng 8,9791 gam.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 43/2018/HSST ngày 28/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang, đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Lê Quang Q, phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”;
Bị cáo Phạm Hữu N, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng: điểm b, i khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt: Bị cáo Lê Quang Q 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/3/2018.
- Áp dụng: điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt: Bị cáo Phạm Hữu N 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/3/2018.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 29/11/2018 và ngày 10/12/2018 các bị cáo Lê Quang Q và Phạm Hữu N làm đơn kháng cáo với cùng nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt với lý do: Hoàn cảnh gia đình khó khăn; là lao động chính trong gia đình; hình phạt đối với bị cáo quá nghiêm khắc.
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa, sau khi xét hỏi, tranh luận, xem xét tính chất, mức độ, hành vi, vai trò phạm tội của các bị cáo; xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và yêu cầu kháng cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử, áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Luật sư trình bày lời bào chữa cho bị cáo Phạm Hữu N:
Thống nhất về tội danh và khung hình phạt như bản án sơ thẩm; Tuy nhiên cũng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ; bị cáo đã thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và cũng chỉ vì muốn có ma túy để sử dụng; mức án phạt bị cáo là quá nghiêm khắc; đề nghị có thể xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 03 năm tù cũng đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Các bị cáo Lê Quang Q và Phạm Hữu N làm đơn kháng cáo trong thời hạn luật định, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận và xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo thừa nhận thực hiện hành vi phạm tội như nội dung án sơ thẩm. Các bị cáo khai nhận, Ngày 22/3/2018, Lê Quang Q điều khiển xe mô tô của Q chở N đến quán cà phê N7 ở thành phố Long Xuyên uống nước. Tại đây, Q mua ma túy của một người lạ mặt, đưa cho N cất giấu ma túy vào trong áo khoác. Sau đó, Q điều khiển xe chở N về đến xã Vĩnh Trạch, huyện Thoại Sơn, thì bị lực lượng Công an huyện Thoại Sơn bắt quả tang cùng vật chứng. Ngoài lần này ra, Q còn khai trước đây nhiều lần mua ma túy về phân ra bán cho các con nghiện.
Xét lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm, hoàn toàn phù hợp với lời khai trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm. Kết quả giám định và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, cấp sơ thẩm đã tuyên xử bị cáo Lê Quang Q về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, i khoản 2 Điều 251; Bị cáo Phạm Hữu N tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Xét yêu cầu kháng cáo của các bị cáo thì thấy:
Các bị cáo là người đã trưởng thành, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật và hoàn toàn biết được tác hại của ma túy gây ra cho con người, nó làm băng hoại sức sống của con người, gây tổn hại sức khỏe, sức lao động, ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội và là một trong những nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Lẽ ra, các bị cáo phải biết cố gắng lao động, rèn luyện, phẩm chất đạo đức để trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội. Nhưng các bị cáo không làm được điều đó, chỉ vì muốn có ma túy để sử dụng và hưởng lợi bất chính từ việc mua bán trái phép chất ma túy, nên bị cáo Q đã bán ma túy nhiều lần cho nhiều người, bị cáo N mặc dù không biết bị cáo Q mua ma túy về bán nhưng cũng đồng ý đi theo và thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, bất chấp pháp luật, hậu quả xảy ra và cố ý thực hiện.
Xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đánh giá đúng đắn tính chất, mức độ hành vi, vai trò phạm tội của từng bị cáo và tuyên phạt các bị cáo Lê Quang Q 07 năm tù; bị cáo Phạm Hữu N 05 năm tù là thỏa đáng. Các bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, nhưng không đưa ra tình tiết giảm nhẹ nào mới ngoài các tình tiết giảm nhẹ mà án sơ thẩm đã xem xét, để làm căn cứ giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Do đó, Hội đồng xét không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của các bị cáo, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[4] Về án phí: Do yêu cầu kháng cáo của các bị cáo không được chấp nhận, nên các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[5] Các phần quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Lê Quang Q và Phạm Hữu N.
Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Áp dụng: điểm b, i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt: Bị cáo Lê Quang Q 07 (bảy) năm tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 22/3/2018.
Áp dụng: điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt: Bị cáo Phạm Hữu N 05 (năm) năm tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 22/3/2018.
Tạm quản lý số tiền 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm nghìn) do gia đình bị cáo giao nộp theo Biên lai thu tiền số 0002216 ngày 02/01/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang để đảm bảo cho việc Thi hành án.
Các bị cáo Lê Quang Q và Phạm Hữu N mỗi người phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Các phần Quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 43/2018/HSST ngày 28/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 51/2019/HS-PT ngày 05/03/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 51/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân An Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/03/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về