TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM KHÊ - TỈNH PHÚ THỌ
BẢN ÁN 51/2019/HNGĐ-ST NGÀY 27/12/2019 VỀ TRANH CHẤP NGƯỜI TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU LY HÔN
Ngày 27 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Cẩm Khê-tỉnh Phú Thọ, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 189/2019/TLST-HNGĐ ngày 02/7/2019 về việc: “Tranh chấp về người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2019/QĐXX-ST ngày 14/10/2019, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Duy C - sinh năm 1987; nơi ĐKHKTT: Thôn 10, xã Q, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ; tạm trú tại: Số 72, tổ 9A, phường T, quận H, thành phố Hà Nội. Có mặt.
2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị L - sinh năm 1987; nơi cư trú: Khu 09, xã P, huyện C, tỉnh Phú Thọ. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ngày 25/6/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là anh Nguyễn Duy C trình bày: Theo nội dung Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 73/2014/QĐST-HNGĐ ngày 16/7/2014 của Tòa án nhân dân huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ, thì anh C và chị Nguyễn Thị L đã thuận tình ly hôn. Về con chung, hai bên thỏa thuận là chị L trực tiếp nuôi con chung của vợ chồng là Nguyễn Duy M-sinh ngày 16/11/2010. Anh C có nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi con chung mỗi tháng là 600.000đồng, kể từ tháng 7/2014 đến khi con chung trưởng thành, lao động tự túc được. Sau đó, anh C đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, nhưng chị L nuôi dưỡng, chăm sóc cho cháu M chưa được đầy đủ, khiến cháu bị suy dinh dưỡng. Mặt khác, chị L đã đi lấy chồng, không có điều kiện chăm nuôi con mà phải gửi bố mẹ đẻ chị L nuôi dưỡng hộ. Nay anh C yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh C được trực tiếp nuôi con chung là Nguyễn Duy M và không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con.
Tại bản tự khai ngày 05/7/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là chị Nguyễn Thị L trình bày: Chị và anh Nguyễn Duy C đã ly hôn nhau theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 73/2014/QĐST-HNGĐ ngày 16/7/2014 của Tòa án nhân dân huyện Đoan Hùng- tỉnh Phú Thọ. Sau khi ly hôn, chị và con chung của vợ chồng là Nguyễn Duy M - sinh ngày 16/11/2010 chuyển về ở cùng nhà bố mẹ đẻ chị tại khu 9- xã P- huyện C- tỉnh Phú Thọ. Mặc dù chị đã cưới người khác, nhưng vẫn ở cùng nhà bố mẹ đẻ chị tại khu 09-xã Pvà trực tiếp chăm sóc cháu M với sự hỗ trợ của bố mẹ đẻ chị và người chồng mới của chị. Nay anh Nguyễn Duy C khởi kiện yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, chị không đồng ý, vì chị và bố mẹ đẻ chị vẫn chăm lo cho cháu M có cuộc sống đầy đủ, được học hành và phát triển ổn định.
Tại phiên tòa, các đương sự giữ nguyên yêu cầu, ý kiến đã trình bày. Kiểm sát viên phát biểu ý kiến và xác định:
- Về tố tụng dân sự: Việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, đều thực hiện đúng quy định pháp luật.
- Về giải qquyết vụ án: Đề nghị HĐXX căn cứ vào khoản 1, Điểm b Khoản 2 và khoản 3 Điều 84 và khoản 1, 3 Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ quốc hội ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Duy C về việc: “Yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn”.
Giao con chung là Nguyễn Duy M- sinh ngày 16/11/2010 cho anh Nguyễn Duy C trực tiếp nuôi dưỡng kể từ tháng 11/2019. Chị Nguyễn Thị L không phải cấp dưỡng nuôi con chung, vì anh C không yêu cầu.
2. Về án phí: Anh Nguyễn Duy C chịu 300.000đ ( Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét, đánh giá đầy đủ và toàn diện chứng cứ, Hội đồng xét xử nhận định:
[1].Về quan hệ pháp luật tranh chấp, thẩm quyền giải quyết vụ án: Tranh chấp giữa anh Nguyễn Duy C và chị Nguyễn Thị L là “Tranh chấp về người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn”. Con chung của anh C, chị L là Nguyễn Duy M cư trú tại khu 09, xã P, huyện C, tỉnh Phú Thọ. Do vậy, Tòa án nhân dân huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ thụ lý giải quyết là đúng với quy định tại khoản 3 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm i khoản 2 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2]. Về yêu cầu, ý kiến của các đương sự:
Kết quả thu thập chứng cứ và lời trình bày của các đương sự cho thấy:
Chị L và cháu M ở tại nhà của bố mẹ đẻ chị L tại khu 04, xã P, có đặc điểm là nhà cấp 4 ba gian và đang có 09 người cùng sống trong nhà. Chị L đã cưới và vừa sinh con chung với người khác. Hiện nay chị L không có nghề nghiệp, thu nhập, phải sống nhờ sự trợ giúp của người chồng mới và gia đình bố mẹ đẻ chị L.
Anh C có nhà ở, nghề nghiệp, thu nhập ổn định và chưa kết hôn. Kể từ khi ly hôn với chị L đến nay, anh C thực hiện đầy đủ nghĩa vụ cấp dưỡng và luôn dành thời gian đến thăm nom, chăm sóc cháu M.
Con chung của anh C, chị L là Nguyễn Duy M đã 09 tuổi, có quan điểm là yêu thương cả chị L và anh C.
Do vậy, có đủ căn cứ để kết luận là anh C có đủ điều kiện trực tiếp nuôi dưỡng cháu M hơn chị L và để đảm bảo sự phát triển đầy đủ, toàn diện của con chung về vật chất, tinh thần, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là giao cháu Nguyễn Duy M cho anh C trực tiếp nuôi dưỡng và chị L không phải cấp dưỡng nuôi con vì anh C không yêu cầu. Việc chị L từ chối thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn là không có căn cứ để chấp nhận.
[3]. Về án phí: Anh C đề nghị được chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật và đề nghị này không trái pháp luật, đạo đức xã hội, cần chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Khoản 1, Điểm b Khoản 2 và Khoản 3 Điều 84 và Khoản 1, 3 Điều 82; Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 1 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 2 điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ quốc hội ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Điều 26 của Luật thi hành án dân sự;
Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Duy C về việc: “Yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn”.
1.1. Giao con chung là Nguyễn Duy M- sinh ngày 16/11/2010 cho anh Nguyễn Duy C trực tiếp nuôi dưỡng kể từ tháng 11/2019. Chị Nguyễn Thị L không phải cấp dưỡng nuôi con chung, vì anh C không yêu cầu.
1.2. Chị Nguyễn Thị L có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.
2. Về án phí: Anh Nguyễn Duy C chịu 300.000đ ( Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng ) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0003293 ngày 02/7/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cẩm khê. Anh C đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ để yêu cầu xét xử phúc thẩm.
Bản án 51/2019/HNGĐ-ST ngày 27/12/2019 về tranh chấp người trực tiếp nuôi con sau ly hôn
Số hiệu: | 51/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Khê - Phú Thọ |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/12/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về