Bản án 51/2018/HS-ST ngày 19/10/2018 về tội trộm cắp tài sản và trốn khỏi nơi giam, giữ

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ GIA NGHĨA, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 51/2018/HS-ST NGÀY 19/10/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TRỐN KHỎI NƠI GIAM, GIỮ

Ngày 19 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:60/TLST-HS ngày 27 tháng 9 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:57 ngày 09 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:

Lê Viết G, sinh năm: 1984, tại tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: Thôn 3, xã T, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 0/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Viết T và bà Phan Thị H; có vợ là H’N và 02 con; về nhân thân:

Tháng 02/2006 phạm tội Cưỡng đoạt tài sản, bị Tòa án nhân dân huyệnTriệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 24 tháng tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số12/2006/HSST ngày 27/4/2006; ngày 02/02/2008 chấp hành xong hình phạt.

Tháng 12/2009 phạm tội Trộm cắp tài sản, bị Tòa án nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông xử phạt 01 năm 03 tháng tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 28/2010/HSST ngày 08/7/2010; ngày 12/5/2011 chấp hành xong hình phạt.

Ngày 31/12/2011 phạm tội Cố ý gây thương tích, bị Tòa án nhân dân thị xãGia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông xử phạt 04 năm tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số17/2012/HSST ngày 13/4/2012; ngày 19/10/2015 chấp hành xong hình phạt.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 25/7/2018 đến ngày 30/7/2018 và tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/8/2018; có mặt.

- Bị hại: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm: 1984; địa chỉ: Tổ 6, phường N, thị xãG, tỉnh Đắk Nông; vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

Những người làm chứng: Anh Nguyễn Quốc B và anh Nguyễn Sỹ Trung H; vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 00 phút, ngày 23/7/2018, Lê Viết G đến nhà sách Việt Nguyên để mua văn phòng phẩm. Lúc này, có chị Nguyễn Thị H là nhân viên bán hàng của Nhà sách đang trông coi cửa hàng. Chị H ngồi ở quầy tính tiền bên trái cửa ra vào và để chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus màu vàng đồng trên kệ bán hàng phía sau quầy tính tiền. G nhìn thấy vậy nên nảy sinh ý định trộm cắp chiếc điện thoại bán lấy tiền tiêu xài. G đi đến nơi chị Hằng để điện thoại, giả vờ tìm món đồ cần mua, lợi dụng lúc chị H đang bán hàng cho khách, G đã lấy chiếc điện thoại bỏ vào chiếc túi xách bằng vải kaki màu đen, kích thước khoảng (20x15) cm của mình, rồi nhanh chóng rời khỏi nhà sách và đi về nhà nghỉ Hồng Phúc nơi G đang thuê phòng để ở. Tại đây, G lấy điện thoại ra kiểm tra thì thấy máy không cài mật khẩu, nên G tháo sim điện thoại của chị H bỏ vào ví da của mình, rồi lấy sim của G lắp vào máy sử dụng, đến ngày 25/7/2018 thì G bị bắt và bị tạm giữ tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Gia Nghĩa.

Đến khoảng 08 giờ 00 phút ngày 30/7/2018, trong khi đang bị tạm giữ tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Gia Nghĩa thì G có biểu hiện lên cơn nghiện ma túy, chân tay co cứng, miệng sùi bọt mép và ngất xỉu, nên được các cán bộ Nhà tạm giữ cùng những người cùng buồng tạm giữ với G đưa đến phòng y tế của Nhà tạm giữ để sơ cứu. Sau khi báo cáo lãnh đạo Công an thị xã Gia Nghĩa và làm xong các thủ tục trích xuất, các cán bộ Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp gồm Nguyễn Quốc B, Lê Tấn L và Hà Văn T trực tiếp dẫn giải G bằng xe đặc chủng đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Đắk Nông. Tại đây, sau khi được cấp cứu, G được đưa đến phòng hồi sức cấp cứu để tiếp tục điều trị. Thời điểm này có đồng chí B và Nguyễn Sỹ Trung H được cử đến thay cho đồng chí L và T để trực tiếp giám sát, quản lý G.

Đến khoảng 09 giờ 00 phút cùng ngày thì G tỉnh lại, trên người vẫn mặc quần áo phạm nhân nhưng chân, tay không được còng bằng khóa số 8, vì đang phải truyền dịch. Lúc này, đồng chí H đi ra khỏi phòng để làm thủ tục nhập viện và đóng viện phí theo yêu cầu của bác sĩ, chỉ còn đồng chí B cùng một vài người nhà bệnh nhân khác trong phòng bệnh. Thấy vậy G nảy sinh ý định bỏ trốn khỏi bệnh viện. G nói với đồng chí B“Cán bộ cho em xin ly nước” thì đồng chí B đồng ý và đi lấy cho G 01 ly nước. Uống xong G trả lại chiếc ly cho đồng chí B, khi đồng chí B vừa quay lưng đi cất ly nước, lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của đồng chí B, G đã dứt dây truyền dịch ở tay ra, vùng dậy bỏ chạy khỏi phòng bệnh, sau đó trèo qua hàng rào bệnh viện, chạy vào rẫy cà phê của người dân và trốn thoát. Đồng chí B, H cùng các y bác sỹ trong Bệnh viện đuổi theo để bắt G, nhưng không được.

Sau khi trốn khỏi bệnh viện, G đón xe khách về quê tại huyện T, tỉnh Thanh Hóa và lẩn trốn tại chòi canh mía của người dân ở đây, không cho gia đình biết. Đến ngày 11/8/2018, Giáp bị Công an huyện Triệu Sơn bắt truy nã sau đó giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Gia Nghĩa để xử lý theo thẩm quyền.

Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật:

01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 8 Plus màu vàng đồng, có ốp lưng bằng nhựa đính đá màu sáng trắng, số IMEI: 354833090301207, điện thoại đang gắn sim đăng ký số thuê bao 0969505292.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 56/KLĐG ngày 30/7/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thị xã Gia Nghĩa kết luận: Chiếc điện thoại trên trị giá 19.192.000 đồng.

Đối với 01 sim điện thoại của chị Nguyễn Thị H và chiếc túi xách bằng vải kaki màu đen G dùng để đựng chiếc điện thoại khi trộm cắp; sau khi về nhà nghỉ Hồng Phúc, G đã tháo chiếc sim này bỏ vào ví da của mình sau đó làm mất, còn chiếc túi xách G bỏ lại phòng trọ. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Gia Nghĩa đã tiến hành truy tìm, nhưng không thu giữ được.

Tại bản Cáo trạng số 59/CT-VKS ngày 26 tháng 9 năm 2018 Viện kiểm sát nhân dân thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông đã truy tố Lê Viết G về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 và tội “Trốn khỏi nơi giam, giữ” theo khoản 1 Điều 386 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Lê Viết G thừa nhận Viện kiểm sát truy tố bị cáo về các tội danh và điều luật như Cáo trạng là đúng, không oan.

Kết quả tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173, khoản 1 Điều 386, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 55, Điều 38 của Bộ Luật Hình sự: Xử phạt Lê Viết G từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 09 tháng tù về tội “Trốn khỏi nơi giam, giữ”. Tổng hợp hình phạt của hai tội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung, được khấu trừ thời hạn bị bắt tạm giữ từ ngày ngày 11/8/2018.

Việc xử lý vật chứng: Chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Gia Nghĩa xử lý vật chứng trả lại chiếc điện thoại Iphone 8 Plus cho chị Nguyễn Thị H, trả lại 01 sim điện thoại đăng ký số 0969505292 cho G là chủ sở hữu hợp pháp.

Về dân sự: Không đề cập giải quyết.

Về hình phạt bổ sung: Đề nghị không áp dụng.

Tại phiên tòa bị cáo không trình bày lời bào chữa, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa. Các chứng cứ buộc tội và quan điểm đề nghị xử lý của đại diện Viện kiểm sát đối với bị cáo là có căn cứ. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận:

Lợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản của chị Nguyễn Thị H, Lê Viết G đã lén lút chiếm đoạt được 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 8 Plus màu vàng đồng có giá trị 19.192.000 đồng. Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của Lê Viết G bị phát hiện, ngày 27/7/2018 G bị Cơ quan điều tra Công an thị xã Gia Nghĩa tạm giữ để điều tra, truy tố. Sáng ngày 30/7/2018 tại buồng tạm giữ G lên cơn co giật nên được trích xuất đưa đến bệnh Bệnh viện đa khoa tỉnh Đắk Nông để cấp cứu và được sắp xếp ở phòng bệnh để điều trị, có cán bộ Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp quản lý, canh giữ. Lợi dụng sự mất cảnh giác của cán bộ canh gác, quản lý, G đã vùng chạy rồi bỏ trốn.

Vì vậy có đủ căn cứ pháp lý để kết luận bị cáo Lê Viết G phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 và tội “Trốn khỏi nơi giam, giữ” theo khoản 1 Điều 386 của Bộ luật Hình sự.

Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm…”.

Điều 386 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào đang bị tạm giữ, tạm giam, áp giải, xét xử hoặc chấp hành án phạt tù mà bỏ trốn, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. ………”

[3] Xét các hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương. Hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Hành vi bỏ trốn khỏi nơi giam, giữ của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ tạm giữ, tạm giam, xâm phạm đến hoạt động bình thường của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự trong giai đoạn điều tra, truy tố vụ án hình sự. Bị cáo thực hiện các hành vi với lỗi cố ý, thậm chí còn dùng thủ đoạn để thực hiện hành vi. Điều đó thể hiện bị cáo có ý thức coi thường pháp luật nên cần xử phạt mức hình phạt tù nghiêm khắc nhằm trừng trị bị cáo.

[4] Xét thấy, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Sau khi nhận lại tài sản, bị hại không yêu cầu gì thêm nên không đề cập xử lý.

[6] Về vật chứng vụ án: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Gia Nghĩa có Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc điện thoại Iphone 8 Plus cho chị Nguyễn Thị H; trả lại 01 sim điện thoại đăng ký số 0969505292 cho Lê Viết G là có căn cứ nên cần chấp nhận.

[7] Đối với Nguyễn Quốc B là cán bộ Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp Công an thị xã Gia Nghĩa được phân công quản lý, canh giữ người bị tạm giữ. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đã mất cảnh giác để Lê Viết G bỏ trốn. Trong thời gian bỏ trốn, G không thực hiện các hành vi quy định tại các khoản 1, 2, 3 Điều 376 Bộ luật Hình sự nên không có căn cứ xử lý đối với cán bộ Nguyễn Quốc B.

[8] Xét các chứng cứ buộc tội và quan điểm đề nghị về mức hình phạt, về xử lý vật chứng của Viện kiểm sát là có căn cứ nên cần chấp nhận.

[9] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo và người bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173, khoản 1 Điều 386, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 55 của Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố: Lê Viết G phạm các tội “Trộm cắp tài sản” và “Trốn khỏi nơi giam, giữ”.

Xử phạt bị cáo Lê Viết G 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trốn khỏi nơi giam, giữ”. Tổng hợp hình phạt của hai tội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 03 (ba) năm tù, được khấu trừ thời hạn bị bắt tạm giữ từ ngày 25/7/2018 đến ngày 30/7/2018, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 11/8/2018.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 46, khoản 1 Điều 47, Điều 48 của Bộ luật Hình sự; căn cứ khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Chấp nhận ngày 07/9/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Gia Nghĩa có Quyết định xử lý vật chứng số 865, trả lại chiếc điện thoại Iphone 8 Plus cho chị Nguyễn Thị H là chủ sở hữu hợp pháp.

Chấp nhận ngày 25/7/2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Gia Nghĩa đã trả lại 01 sim điện thoại đăng ký số 0969505292 cho Lê Viết G là chủ sở hữu hợp pháp.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Lê Viết G phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

380
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 51/2018/HS-ST ngày 19/10/2018 về tội trộm cắp tài sản và trốn khỏi nơi giam, giữ

Số hiệu:51/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Gia Nghĩa - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về