Bản án 51/2017/HSST ngày 30/11/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ÂN THI, TỈNH HƯNG YÊN

BẢN ÁN 51/2017/HSST NGÀY 30/11/2017 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 30 tháng 11 năm 2017 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ân Thi xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 50/2017/HSST ngày 15/11/2017 đối với bị cáo:

Trần Thế L Sinh năm: 1976.

STQ: Thôn T, xã Tân L, huyện H, tỉnh Thái Bình.

Nghề nghiệp: Lái xe; Văn hoá: 12/12

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không

Con ông: Trần Thế Q, con bà: Trần Thị C Vợ : Trần Thị C

Có 02 con, lớn sinh năm 2002, nhỏ sinh năm 2008

Tiền án, tiền sự: Chưa có.

Bị cáo hiện đang tại ngoại tại địa phương. Có mặt tại phiên toà.

Người bị hại: Ông Phan Văn H (đã chết)

Người đại diện hợp pháp của người bị hại:

1. Bà Nguyễn Thị M SN 1958 (có mặt)

2. Anh Phan Văn L SN 1984 (vắng mặt)

3. Chị Phan Thị Hồng Nh SN 1990 (có mặt)

Đều trú tại: Thôn T, xã Thúc K, huyện B, Hải Dương.

Đại diện theo ủy quyền của bà M và anh L:

Chị Phan Thị Hồng N

Bị đơn dân sự: Công ty TNHH xây dựng và thƣơng mại Đ Hƣng Yên.

Địa chỉ: Thôn K, xã P, TP H, Hưng Yên. Người đại diện hợp pháp của công ty Đ: Anh Phạm Văn T- Giám đốc (vắng mặt).

NHẬN THẤY

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Ân Thi truy tố về hành vi phạm tội như sau :

Khoảng 17 giờ ngày 17/9/2017, Trần Thế L điều khiển xe ô tô tải biển số 89C-117.41 của Công ty TNHH xây dựng và thương mại Đ Hưng Yên đi trên Quốc lộ 38 theo hướng từ huyện B, tỉnh Hải Dương đi huyện A, tỉnh Hưng Yên. Khi đến địa phận thôn S, xã P, huyện A, tỉnh Hưng Yên, L điều khiển xe theo hướng cong của đường thì phát hiện phía trước có ông Phan Văn H, sinh năm 1950, HKTT ở Ấp N, xã Ng, huyện A, tỉnh Hưng Yên (hiện nay đang ở thôn T, xã Thúc K, huyện B, Hải Dương.) đang điều khiển xe đạp đi ở bên phải mép đường cùng chiều phía trước. Thấy vậy L không bấm còi, không bật đèn báo hiệu mà điều khiển xe ô tô vượt xe đạp của ông H. Cùng lúc đó có 01 xe mô tô khác di chuyển ngược chiều tiến lại, nên L điều khiển xe ô tô ép sang phía bên phải đường đâm vào xe đạp của ông H làm xe đạp đổ nghiêng về phía bên trái, ông H ngã văng ra, bánh xe ô tô bên phải chèn lên người ông H làm ông H tử vong tại chỗ. Sau khi sự việc xảy ra L đã đến Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện A đầu thú và giao nộp toàn bộ giấy tờ xe.

Khám nghiệm hiện trường xác định: Mặt đường trải áp-phan rộng 6,7m, có vạch sơn màu trắng đứt đoạn ở giữa phân chia hai phần đường, lề đường bên phải và bên trái mỗi bên rộng 1,2m. Lấy hướng từ huyện B, tỉnh Hải Dương đi huyện A, tỉnh Hưng Yên làm hướng khám nghiệm, mép đường bên phải làm mép chuẩn. Cách hiện trường 11m ở bên phải có cắm biển cảnh báo nguy hiểm giao nhau với đường không ưu tiên bên trái, bên phải. Lấy cột điện số 27 của Điện lực huyện Ân Thi làm điểm cố định. Cách điểm cố định 15,2m phát hiện chiếc xe đạp mini màu đỏ ký hiệu (X1) nằm đổ nghiêng bên trái, đầu xe hướng về phía huyện Ân Thi, trục trước X1 cách mép chuẩn 01m, trục sau X1 cách mép chuẩn 0,9m. Cách trục trước X1 2,15m là tử thi nằm sấp ký hiệu (B), đầu hướng chếch về phía huyện Ân Thi cách mép chuẩn 03m, chân hướng chếch cách mép chuẩn 1,9m. Cách đầu tử thi 2,1m  có vết máu có kích thước (0,5x0,2)m ký hiệu (M1), tâm M1 cách mép chuẩn 2,5m, cách 01m là một chiếc nón lá ký hiệu (N), chóp nón cách mép chuẩn 3,2m. Cách M1 1,5m là xe ô tô tải biển số 89C-117.41 ký hiệu (X2), đầu X2 hướng về hướng huyện Ân Thi. Trục trước bên phải của X2 cách mép chuẩn 1,9m, cách lốp xe phía trước bên phải của X2 0,25m có vết máu nhỏ giọt kích thước (0,025x0,021)m ký hiệu (M2), tâm M2 cách mép chuẩn 02m, trục sau thứ ba của X2 cách mép chuẩn 2,4m. Mở rộng hiện trường phát hiện 01 vết trượt màu đen kích thước (1,4x0,15)m ký hiệu (P), đầu P cách mép chuẩn 2,8m, cuối P cách mép chuẩn 2,9m, cách điểm cố định 5,7m, cách trục sau xe ô tô biển số 89C-117.41 là 20m.

Khám nghiệm tử thi ông Phan Văn H xác định: Hai mắt nhắm, mắt phải nhãn cầu bật ra khỏi hốc mắt, mắt trái nhãn cầu bị vỡ, hai lỗ mũi, lỗ tai, miệng có máu. Toàn bộ vùng đầu mặt có đám rách toác da, xây xát da, bầm tím kích thước (60x25)cm, mổ kiểm tra vị trí này thấy vỡ xương hộp sọ thành nhiều mảnh nhỏ, xương gò má hai bên, xương hàm trên, xương hàm dưới vỡ thành nhiều mảnh nhỏ làm tổ chức não bật ra ngoài, các răng 1,2 hàm trên bên phải, răng số 1,2,3 hàm trên bên trái bị gãy, đầu và mặt biến dạng bẹp từ trước ra sau, từ phải qua trái. Vùng cổ và ngực phía trước có đám xây xát da trên diện bầm tím kích thước (33x32)cm, kiểm tra tại vùng này thấy gãy đầu trong xương đòn bên phải, xương sườn bên phải, gãy xương đòn bên trái và các xương sườn 1,2,3,4 bên trái làm lồng ngực biến dạng bẹp từ trước ra sau, từ phải qua trái.

Vùng vai đoạn 1/3 trên cánh tay phải có đám xây xát bầm tím kích thước (20x20)cm, kiểm tra vùng này thấy gãy xương bả vai phải. Mặt ngoài cánh tay trái có đám xây xát da kích thước (31x14)cm. Vùng đùi gối phải có đám xây sát trên diện bầm tím sưng nề kích thước (47x30)cm, kiểm tra vùng này thấy gãy xương đùi phải. Vùng bẹn đùi bên trái có đám rách da sâu trên diện bầm tím kích thước (44x22)cm, phủ tạng trong ổ bụng bật ra ngoài. Toàn bộ vùng lưng sát với mỏm cụt có đám xây xát da bầm tím kích thước (44x36)cm có in hình talông lốp xe .

Tại bản kết luận giám định pháp y số 122/PC54 ngày 19/9/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hưng Yên kết luận: Nguyên nhân dẫn đến cái chết của ông Phan Văn H là do đa chấn thương, vỡ xương hộp sọ. Thể loại chết không tự nhiên.

Khám nghiệm xe ôtô biển số 89C- 117.41 xác định: Mặt ngoài lốp của 04 bánh xe phía bên phải đều bám dính chất màu đỏ nghi là máu, có kích thước lần lượt là: Mặt lốp bánh trước, có kích thước (70x25)cm; mặt lốp bánh sau thứ nhất có kích thước (60x20)cm; mặt lốp bánh sau thứ hai có kích thước (40x25)cm; mặt lốp bánh sau thứ ba có kích thước (50x20)cm.

Khám nghiệm chiếc xe đạp mini màu đỏ trắng xác định: Càng xe bị lệch 200 về bên trái so với vị trí ban đầu; mặt trong bên trái giỏ xe còn bám dính chất màu đỏ, nghi là máu dạng nhỏ giọt; đầu ngoài bàn đạp bên trái có vết trầy xước nhựa kích thước (06x01)cm.

Vật chứng của vụ án: Cơ quan cảnh sát điều tra đã quản lý 01 chiếc xe ô tô tải biển số 89C-117.41; 01 giấy phép lái xe ô tô hạng C mang tên Trần Thế L; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe ô tô và 01 giấy chứng nhận kiểm định là tài sản hợp pháp của công ty TNHH xây dựng và thương mại Đ Hưng Yên giao cho L là lái xe của công ty; 01 chiếc xe đạp mini màu đỏ trắng.

Ngày 11/10/2017 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ân Thi đã xử lý vật chứng trả lại cho công ty TNHH xây dựng và thương mại Đ Hưng Yên 01 chiếc xe ô tô tải biển số 89C-117.41; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe ô tô và 01 giấy chứng nhận kiểm định.

Trách nhiệm dân sự: Sau khi sự việc xảy ra, L đã đến thăm hỏi, bồi thường cho gia đình ông H số tiền 150.000.000 đồng. Công ty TNHH xây dựng và thương mại Đ Hưng Yên đã tự nguyện hỗ trợ số tiền 20.000.000 đồng. Đại diện gia đình người bị hại là chị Phan Thị Hồng N đã nhận đủ và có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho L.

Tại bản cáo trạng số 42/QĐ-VKS ngày 15/11/2017 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Ân Thi đã truy tố Trần Thế L về tội ‘Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ’ theo quy định tại khoản 1 Điều 202 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ân thi vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị HĐXX:

Tuyên bố Trần Thế L phạm tội Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.

Áp dụng khoản 1 Điều 202 ; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, khoản 1, 2 Điều 60 Bộ luật hình sự 1999; khoản 3 Điều 7, điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015; Điểm h khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Nghị quyết số 01/2016/NQ-HĐTP ngày 30/6/2016 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao; khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Xử phạt Trần Thế L từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 02 năm đến 03 năm, tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo cho UBND xã Tân L, huyện H, tỉnh Thái Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Không áp dụng hình phạt bổ sung với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự không đặt ra xem xét.

Về vật chứng : Áp dụng khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.

Trả lại cho bị cáo 01 giấy phép lái xe ô tô mang tên Trần Thế L. Trả lại cho gia đình ông H 01 chiếc xe đạp mi ni màu đỏ trắng.

Về án phí: Đề nghị HĐXX xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại CQĐT và tại phiên toà hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ, ăn năn hối cải và xin được cải tạo tại địa phương để có cơ hội được sửa chữa trở thành người có ích cho xã hội.

Người đại diện theo ủy quyền của những người đại diện hợp pháp của người bị hại là chị Phan Thị Hồng N xác nhận việc bị cáo đã bồi thường toàn bộ những thiệt hại mà bị cáo gây ra, xin miễn truy cứu TNHS cho bị cáo và thay mặt gia đình xin lại chiếc xe đạp mi ni màu đỏ trắng.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét toàn diện đầy đủ chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, những người tham gia tố tụng.

XÉT THẤY

Khoảng 17 giờ ngày 17/9/2017, Trần Thế L điều khiển xe ô tô tải biển số 89C-117.41 đi trên Quốc lộ 38 theo hướng từ huyện B, tỉnh Hải Dương đến huyện A, tỉnh Hưng Yên. Khi đi đến đoạn đường cong thuộc địa phận thôn S, xã P, huyện A, tỉnh Hưng Yên do không làm chủ tốc độ, không chấp hành biển báo hiệu đường bộ, không thực hiện các quy định khi vượt xe nên đã đâm vào ông Phan Văn H điều khiển xe đạp đi cùng chiều, làm ông H tử vong tại chỗ.

Quá trình điều tra vụ án cũng như tại phiên toà ngày hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội của bị cáo là phù hợp khách quan với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như:

Biên bản hỏi cung bị can, lời khai của những người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, biên bản khám nghiệm phương tiện, biên bản khám nghiệm tử thi, kết luận giám định pháp y...

Như vậy Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở để kết luận: Hành vi của Trần Thế L đã vi phạm khoản 1, khoản 3 Điều 5 Thông tư 91/2015/TT-BGTVT ngày 31/12/2015 của Bộ giao thông vận tải quy định về tốc độ và khoảng cách an toàn của xe cơ giới, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ; vi phạm khoản 1 Điều 9; khoản 1 Điều 11; khoản 1 Điều 12; khoản 1, khoản 2 Điều 14 Luật Giao thông đường bộ, gây tai nạn làm ông Phan Văn H tử vong. Bị cáo đã phạm tội Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo khoản 1 Điều 202 của Bộ luật hình sự như bản cáo trạng của Viện Kiểm sát đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự an toàn giao thông đường bộ, xâm phạm đến tính mạng của người khác được pháp luật bảo vệ. Ngoài ra, hành vi này còn gây tâm lý hoang mang lo sợ cho mọi người khi tham gia giao thông đường bộ. Vì vậy, việc đưa ra truy tố và xét xử kịp thời trước pháp luật hành vi phạm tội của bị cáo là cần thiết, có tác dụng trong việc đấu tranh phòng và chống tội phạm.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét đến tính chất mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng TNHS nào. Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả cho gia đình người bị hại. Quá trình điều tra vụ án cũng như tại phiên toà hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, p khoản 1 điều 46 BLHS. Bị cáo còn có bố được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba, đây là tình tiết giảm nhẹ có lợi cho người phạm tội quy định tại điểm x khoản 1 Điều 51 BLHS 2015 nên theo khoản 3 Điều 7 BLHS 2015, Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 và Nghị quyết số 01/2016/NQ- HĐTP ngày 30/6/2016 bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ TNHS này. Ngoài ra, bị cáo đã đầu thú sau khi gây ra hành vi phạm tội, mặt khác đại diện của người bị hại cũng xin miễn truy cứu TNHS cho bị cáo, bị cáo có đơn xin được cải tạo tại địa phương có xác nhận của UBND xã Tân L, huyện H, Thái Bình nên bị cáo được hưởng thêm ba tình tiết giảm nhẹ TNHS theo quy định tại khoản 2 Điều 46 của BLHS.

Xét đặc điểm nhân thân của bị cáo: Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng. Sau khi sự việc xảy ra, bị cáo đã chủ động bồi thường thiệt hại cho gia đình người bị hại. Tại phiên toà bị cáo đã nhận ra sai lầm của mình và hứa sẽ quyết tâm sửa chữa để trở thành công dân có ích cho xã hội, đại diện gia đình người bị hại cũng đề nghị miễn TNHS cho bị cáo. Vì vậy không cần cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội để tạo điều kiện cho bị cáo có cơ hội sửa chữa sai lầm, nên giao cho chính quyền địa phương nơi thường trú quản lý, giám sát, giáo dục.

Về hình phạt bổ sung : Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo nên tuyên trả 01 giấy phép lái xe mang tên Trần Thế L cho bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ân Thi đã xử lý vật chứng trả lại cho công ty TNHH xây dựng và thương mại Đ Hưng Yên 01 chiếc xe ô tô tải biển số 89C-117.41; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe ô tô và 01 giấy chứng nhận kiểm định. Đại diện công ty đã nhận và không có đề nghị, thắc mắc gì nên HĐXX không xem xét.

Chiếc xe mini màu đỏ trắng là tài sản hợp pháp của ông H nên trả lại cho gia đình ông H.

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi xảy ra sự việc trên, bị cáo đã tích cực bồi thường toàn bộ thiệt hại do bị cáo gây ra cho gia đình người bị hại, đại diện gia đình người bị hại đã nhận và không yêu cầu bồi thường gì thêm, đại diện công ty Đ cũng không yêu cầu bị cáo phải bồi hoàn số tiền 20.000.000 đ đã bồi thường cho gia đình người bị hại nên HĐXX không đặt ra để giải quyết.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Trần Thế L phạm tội Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.

Áp dụng khoản 1 Điều 202, điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; khoản 1, khoản 2 Điều 60 Bộ luật hình sự ; khoản 3 Điều 7, điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015; Điểm h khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Nghị quyết số 01/2016/NQ-HĐTP ngày 30/6/2016 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao; khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trần Thế L 01 năm 03 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 năm 06 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo cho UBND xã Tân L, huyện H, Thái Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người bị kết án đang chấp hành thời gian thử thách chuyển đi nơi khác thì cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục có trách nhiệm thông báo ngay cho cơ quan thi hành án hình sự công an cấp huyện và kèm theo hồ sơ của người đó để cơ quan THA hình sự công an cấp huyện làm thủ tục cần thiết giao cho cơ quan, tổ chức nơi người đó chuyển đến tiếp tục giám sát, giáo dục.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 76 Bộ luật TTHS :

Trả lại bị cáo 01 giấy phép lái xe số 340064340248 do Sở giao thông vận tải tỉnh Thái Bình cấp ngày 07/08/2017 mang tên Trần Thế L.

Trả lại gia đình ông H 01 xe đạp mi ni màu đỏ trắng (có đặc điểm như quyết định chuyển vật chứng).

Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Uỷ ban thường vụ Quốc hội năm 2016. Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo, chị N, bà M có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh L, anh T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

351
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 51/2017/HSST ngày 30/11/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:51/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ân Thi - Hưng Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về