Bản án 51/2017/HSST ngày 28/12/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NC, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 51/2017/HSST NGÀY 28/12/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 28 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện NC, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 51/2017/HSST ngày 21 tháng 11  năm 2017, đối với bị cáo:

Phạm Văn L, sinh năm 1988; sinh và trú tại: Thôn 4, xã T Th, huyện N, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: Lớp 9; con ông: Phạm Văn L và bà Lê Thị L; Có vợ là Nguyễn Thị C và có 03 con, lớn nhất sinh năm 2011, nhỏ nhất sinh năm 2017; Tiền án: Tháng 11 năm 2015 bị Tòa án nhân dân huyện N C, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 12 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”, chấp hành xong tháng 7 năm 2016; Tiền sự: không; Bị bắt tạm giữ ngày 26/9/2017, chuyển tạm giam ngày 05/10/2017 tại Trại tạm giam thuộc Công an tỉnh Thanh Hóa đến nay; có mặt tại phiên tòa.

*Người bị hại:

- Anh Trần Văn Ph – Sinh năm 1981( Vắng mặt)

Địa chỉ: Thôn 8 Tân Sơn xã T Kh huyện N C tỉnh Thanh Hóa

NHẬN THẤY

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện N C, tỉnh Thanh Hóa truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 0 giờ ngày 26/9/2017 Lê Bật T, sinh năm 1990 ở xóm 12, xã T N, huyện Tr S, tỉnh Thanh Hóa đến rủ Phạm Văn L đi trộm cắp gỗ. Do cần tiền tiêu xài cá nhân nên L đồng ý. Sau đó T điều khiển xe mô tô, BKS 36B5-288.82 chở L đi đến xã T Kh, huyện N C. Khi thấy có đống gỗ keo tại bãi cát trước nhà anh Trần Văn Ph, ở thôn 8, xã T Kh, huyện N C thì T dừng xe lại. Cả hai xuống xe và cùng khiêng 01 khúc gỗ keo đặt nằm ngang lên yên xe. L ngồi sau ôm khúc gỗ còn T điều khiển xe chở khúc gỗ về hướng xã T N, huyện Tr S. Khi đi đến đoạn đường thuộc địa phận thôn 2, xã T Kh, huyện N C thì khúc gỗ trên va vào chiếc xe taxi ven đường, làm cả hai bị ngã, còn khúc gỗ lăn ra đường. Do bị va quyệt trầy xước xe nên L đi cùng người lái xe taxi xuống thành phố Thanh Hóa để sửa chữa. Tâm bỏ lại khúc gỗ ở đường và điều khiển xe mô tô đi về nhà. Đến chiều ngày 26/9/2017 Lâm tới Cơ quan CSĐT Công an huyện N C đầu thú, khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Theo báo cáo của anh Trần Văn Ph: Tài sản của anh bị mất trộm vào ngày 26/9/2017 là 01 khúc gỗ keo, dài 03 mét, đường kính 20 cm, đã được bóc vỏ ngoài. Khúc gỗ trên anh mua về để làm gỗ cách đây khoảng 01 tháng với giá 300.000đ. Anh Ph nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm về phần dân sự.

Ngày 28/9/2017 Hội đồng định giá huyện N C đã tiến hành định giá đối với khúc gỗ keo trên. Kết luận: Tại thời điểm bị mất trộm, khúc gỗ trên có trị giá 300.000đ.

Đối với chiếc xe mô tô, BKS 36 B5-288.82 do Lê Bật Tâm sử dụng chở Lâm đi trộm cắp tài sản. Qua điều tra xác định là xe của anh Lê Bật Toàn (là em ruột của Tâm), Khi cho Tâm mượn xe, anh Toàn không biết Tâm sử dụng xe để làm phương tiện đi trộm cắp tài sản. Do không chứng minh được nên cơ quan CSĐT Công an huyện Nông Cống đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp. Đối với Lê Bật T, chưa có tiền án tiền sự, cơ quan CSĐT Công an huyện N C đã ra quyết định xử lý hành chính là đúng quy định.

Tại bản cáo trạng số: 53/CTr - VKS ngày 21/11/2017 của VKSND huyện N C truy tố Phạm Văn L ra trước toà để xét xử về tội: “ Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 138 BLHS.

Tại phiên toà công khai bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình và xin giảm nhẹ hình phạt. Đại diện VKS luận tội khẳng định bị cáo Phạm Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản” Căn cứ vào khoản 1 điều 138 điểm p, g khoản 1 điều 46, khoản 2 điều 46 và điều 33 BLHS đề nghị HĐXX tuyên phạt bị cáo Phạm Văn L  từ 06  đến 09  tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Trách nhiệm dân sự: Tài sản đã trả lại cho người bị hại. Bị cáo thuộc hộ cận nghèo, nên được miễn tiền án phí theo quy định của pháp luật.

- Căn cứ  vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ và toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

XÉT THẤY

Thông qua xét hỏi và tranh luận tại phiên toà bị cáo Phạm Văn L thừa nhận: Vào rạng sáng ngày 26/9/2017 L và T đã lén lút lấy trộm 01 khỳc gỗ keo, dài 03 mét, đường kính 20 cm, đó được bóc vỏ ngoài của anh Trần Văn Ph.

Đối chiếu với lời khai của bị cáo trong hồ sơ vụ án, người bị hại, biên bản định giá tài sản và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án thấy hoàn toàn phù hợp. Tuy tài sản chiếm đoạt trị giá 300.000đ, nhưng trước đó bị cáo đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích nên phạm vào khoản 1 điều 138 BLHS. Như vậy HĐXX xét thấy đủ cơ sở khẳng định: Bị cáo Phạm Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm được thành lập theo khoản 1 điều 138 BLHS. VKSND huyện Nông Cống truy tố bị cáo theo tội danh trên, là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tính chất của vụ án là ít nghiêm trọng, nguyên nhân, động cơ và mục đích phạm tội của bị cáo là muốn trộm cắp tài sản để bán lấy tiền tiêu xài. Hành vi của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân, làm mất trật tự trị an trên địa bàn, gây tâm lý lo lắng trong nhân dân về việc bảo vệ giữ gìn tài sản, gây bất bình trong dư luận. Bị cáo đang độ tuổi lao động lẽ ra phải tu chí làm ăn, xây dựng cuộc sống giúp đỡ gia đình vợ con. Song, với bản tính thích chơi bời hưởng thụ, không chịu lao động làm ăn lương thiện, muốn lấy của cải người khác làm của riêng mình. Hành vi của bị cáo cần xử lý nghiêm trước pháp luật để răn đe và phòng ngừa chung.

Xét các tình tiết khác thì thấy: Bị cáo có tiền án, phạm tội lần này chưa đủ định lượng nên không tính tái phạm. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, phạm tội gây thiệt hại không lớn, nên được hưởng tình tiết theo điểm p, g khoản 1 điều 46 BLHS. Sau khi phạm tội đã ra đầu thú nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 điều 46 BLHS. Căn cứ vào tính chất và các tình tiết của vụ án, HĐXX xét thấy bị cáo là đối tượng mới ra tù lại tiếp tục phạm tội, nên cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc trong môi trường giam giữ là cần thiết. Có như vậy mới đủ điều kiện để cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

Hình phạt bổ sung: Bị cáo là con nghiện hoàn cảnh gia đình khó khăn, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Tài sản đã trả lại cho người bị hại, người bị hại không yêu cầu gì thêm, nên Toà không xem xét.

Về án phí: Bị cáo có tội nên phải chịu án phí HSST. Tuy nhiên gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo,  nên căn cứ Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH 14  miễn tiền án phí HSST cho bị cáo.

Từ những căn cứ nêu trên

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 138; điểm p, g Khoản 1 Điều 46, Khoản 2 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự.

- Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn L 09 ( chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26/9/2017.

Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

-  Trách nhiệm dân sự: Tài sản đã trả lại đầy đủ cho người bị hại. Người bị hại không yêu cầu gì thêm nên HĐXX không xem xét.

- Án phí: Áp dụng điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự. Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án. Miễn toàn bộ án phí HSST cho Phạm Văn L.

- Quyền kháng cáo: Áp dụng điều 231, 234 BLTTHS tuyên bố quyền kháng cáo cho bị cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với người bị hại vắng mặt thời hạn kháng cáo bản án là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

264
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 51/2017/HSST ngày 28/12/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:51/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nông Cống - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về