Bản án 51/2017/HSST ngày 22/11/2017 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN LẠC, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 51/2017/HSST NGÀY 22/11/2017 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 22 tháng 11 năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 53/2017/HSST ngày  01  tháng  11năm  2017,  theo quyết  định  đưa  vụ  án  ra  xét  xử  số: 54/2017/HSST- QĐ ngày 08 tháng 11 năm 2017, đối với các bị cáo:

1/ Nguyễn Kim T, sinh ngày 26/9/1976; trú tại: Thôn B, xã T, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: 06/12; con ông Nguyễn Kim K và bà Đào Thị C; có vợ là chị Tạ Thị B và 03 con, lớn sinh năm 1999, nhỏ sinh năm 2007; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 16/9/2017 cho đến ngày 22/9/2017 được tại ngoại (có mặt).

2/ Đào Đình N, sinh ngày 20/3/1984; trú tại: Thôn P, xã T, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: 12/12; con ông Đào Đình V và bà Trần Thị L; có vợ là chị Vũ Thị Ngọc A và  02 con, lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 16/9/2017 cho đến ngày 22/9/2017 được tại ngoại (có mặt).

3/ Vũ Văn H, sinh ngày 20/7/1978; trú tại: Thôn B, xã T, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: 01/12; con ông Vũ Văn T và bà Tạ Thị T; có vợ là chị Nguyễn Thị P và 04 con, lớn sinh năm 2000, nhỏ sinh năm2015; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 16/9/2017 cho đến ngày 22/9/2017 được tại ngoại (có mặt).

4/ Tạ Văn T1, sinh ngày 10/8/1976; trú tại: Thôn B, xã T, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: 07/12; con ông Tạ văn V và bà Nguyễn Thị C; có vợ là chị Nguyễn Thị S và 03 con, lớn sinh năm 2001, nhỏ sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại (có mặt).

5/ Nguyễn Hải Đ, sinh ngày 07/4/1989; trú tại: Thôn B, xã T, thị trấn Y, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: 12/12; con ông Nguyễn Kim Đ và bà Nguyễn Thị M; có vợ là chị Hà Thị L và 02 con, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 16/9/2017 cho đến ngày 22/9/2017 được tại ngoại (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các T liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tạiphiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 16/9/2017, Nguyễn Kim T cùng với Tạ Quang S, Tạ Văn T1 và Vũ Văn H  đến chơi và ngồi tại bộ bàn ghế đá được kê ở lán để xe ô tô của gia đình anh Tạ Quang T. Lúc đó gia đình anh Tạ Quang T không có ai ở lán. Khi đang ngồi chơi, Nguyễn Kim T nhìn thấy 01 bộ bài tú lơ khơ để ở trên mặt bàn đá nên Thái rủ mọi người đánh bạc ăn tiền. H và T1 đồng ý, còn Tạ Quang S không đồng ý và không tham gia vào việc đánh bạc. Thấy vậy, T đã gọi diện thoại rủ Đào Đình N rủ N đến lán xe để tham gia đánh bạc cùng Thái, H và T. N đồng ý và đi đến lán xe nhà anh T để đánh bạc cùng với Nguyễn Kim T, Vũ Văn H, Tạ Văn T1. Các bị cáo ngồi quây tròn tại bộ bàn ghế đá để đánh bạc, riêng Tạ Quang S chỉ ngồi xem không tham gia đánh bạc cùng. T cùng với N, H và T cùng thống nhất đánh bạc dưới hình thức đánh bài tiến lên miền Nam, khi hết mỗi ván bài thì thanh toán trả tiền cho nhau luôn và tất cả số tiền dùng vào việc đánh bạc đều cất trong người, không ai để tiền trên mặt bàn, mức thắng thua mỗi ván từ 50.000đ đến 100.000đ. Cụ thể như sau:

Dùng bộ bài tulơkhơ có 52 quân, sau đó chia cho mồi người tham gia 13 quân bài, quân bài cao sẽ bắt được quân bài thấp, bộ cao hơn sẽ bắt được bộ thấp hơn nhưng có thể kết hợp được các bộ không đồng chất, đồng màu. Trong đó quân 2 là quân bài cao nhất, tiếp đến là quân A rồi theo thứ tự thấp dần từ quân K xuống tới quân 3, chất cơ là chất cao nhất rồi đến chất rô, tép, bích. Các quân bài có thứ tự liên tiếp liền kề nhau từ 03 quân trở lên sẽ được tính là bộ dọc, có 02 quân trong bộ tứ thì được tính là bộ đôi, có 03 quân trong bộ tứ thì tính là bộ 3, có 04 quân trong bộ tứ thì được tính là tứ quý, có 06 quân bài hợp thành một dãy liên tiếp của 03 đôi thì được tính là 3 đôi thông, có 08 quân bài hợp thành một dãy liên tiếp thì được tính là 4 đôi thông. Bộ tứ, 3 đôi thông, 04 đôi thông có thể bắt được quân 2. Khi lên bài nếu có tứ quý 2; 5 đôi thông; 6 đôi bất kỳ hoặc bài từ 3 đến át (A) thì sẽ hạ bài để chia lại và người có các bộ bài này được đánh đầu tiên ván kế tiếp. Ván bài đầu tiên ai có quân 3 bích được đánh trước, từ ván thử hai trở đi thi người nào thắng ván trước sẽ được đánh bài trước. Ai đánh hết các quân bài của mình trước thì người đó về nhất và những người còn lại đánh bài tiếp để tranh vị trí nhì, ba, bét. Người về nhất sẽ được số tiền là: 100.000 đồng của người về bét, người về nhì được số tiền là: 50.000 đồng của người về ba.

Nguyễn Kim T, Đào Đình N, Vũ Văn H và Tạ Văn T1 tham gia đánh bạc với nhau đến khoảng 15 giờ cùng ngày thì Tạ Văn T1 bận việc riêng nên nghỉ. Ngay lúc đó Nguyễn Kim T đã dùng điện thoại di động gọi cho Nguyễn Hải Đ sang lán xe của anh Tạ Quang T để đánh bạc cùng nhóm của T. Đ đồng ý và đi sang lán xe nhà anh T để đánh bạc cùng với T, N và H, khi đến Đ đã ngồi vào vị trí mà trước đó T đã ngồi để đánh bạc cùng với T, N và H. Cũng trong thời gian này, anh Tạ Quang T đi từ nhà ở của gia đình anh đến lán để xe lấy xe ô tô rồi đi luôn, anh T không biết các đối tượng nêu trên đánh bạc tại đó. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày các bị cáo bị Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện Yên Lạc bắt giữ.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 bộ bài tulokhơ gồm 52 quân bài đã cũ; thu giữ của Nguyễn Kim T số tiền 1.800.000 đồng và 01 điện thoại di động Nokia 1280 màu đen đã cũ; thu giữ của Vũ Văn H số tiền 2.130.000 đồng, 01 điện thoại di động Iphone 6 màu vàng đã cũ và 01 điện thoại di động Iphone 7 màu đen đã cũ; thu giữ của Đào Đình N số tiền 8.900.000 đồng, 01 điện thoại di động Iphone 5S màu vàng đã cũ, 01 điện thoại di dộng Iphone 5 màu đen đã cũ; thu giữ của Nguyễn Hải Đ số tiền 2.875.000 đồng và 01 điện thoại Samsung Galaxy S6 màu xanh đã cũ; thu giữ của Tạ Quang S số tiền 54.460.000 đồng, 01 điện thoại di động Nokia XI màu đen và 01 điện thoại di động Iphone 4S màu đen đã cũ.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã làm rõ khi tham gia đánh bạc Đào Đình  N có số tiền 9.000.000 đồng,  Vũ Văn  H có số tiền 2.230.000 đồng, Nguyễn Kim T có số tiền 1.850.000 đồng, Tạ Văn T1 có số tiền là 1.420.000 đồng, Nguvễn Hải Đ có số tiền 2.625.000 đồng. Tất cả các bị cáo đều dùng số tiền trên vào việc đánh bạc.

Ngoài các đối tượng đã trực tiếp tham gia đánh bạc tại lán xe của gia đình anh Tạ Quang T ra thì Tạ Quang S cũng có mặt ở đó nhưng anh S chỉ ngồi xem, không tham gia đánh bạc. Cơ quan điều tra đã nhắc nhở và không đề cập xử lý anh S theo pháp luật là phù hợp. Ngày 06/10/2017 Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện Yên Lạc đã trả lại cho anh Tạ Quang S số tiền 54.460.000 đồng, 01 điện thoại di động Nokia XI màu đen và 01 điện thoại di động Iphone 4S màu đen đã cũ, anh S đã nhận lại các tài sản trên và không có ý kiến gì.

Đối với anh Tạ Quang T là chủ lán xe nhưng không biết và không đồng ý để cho T cùng các đối tượng chơi đánh bạc tại đó nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

Về vật chứng của vụ án gồm: 01 bộ bài tú lơ khơ gồm 52 quân đã cũ; 17.125.000đ(Mười bảy triệu một trăm hai mươi lăm nghìn đồng) tiền Việt Nam; 06 điện thoại di động, gồm: 01 điện thoại Nokia 1280 của Thái; 01 điện thoại Iphone6, 01 điện thoại Iphone 7 của H; 02 điện thoại Iphone 5 đã cũ của N (trong đó có 01 điện thoại Iphon 5S dùng làm phương tiện phạm tội); 01 điện thoại Samsung Galaxy S6 của Đ.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Kim T, Đào Đình N, Vũ Văn H, Tạ Văn T1 và Nguyễn Hải Đ đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung đã nêu trên.

Tại bản cáo trạng số: 56/KSĐT- KT ngày 31/10/2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc đã truy tố bị cáo Nguyễn Kim T cùng các đồng phạm về tội: "Đánh bạc" theo khoản 1 Điều 248 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố phát biểu luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quan điểm như đã truy tố đối với bị cáo Nguyễn Kim T cùng các đồng phạm. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 248; điểm h, p khoản 1 Điều 46, khoản 2 Điều 46; khoản 1, 2 Điều 60 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Kim T; áp dụng khoản 1 Điều 248; điểm h, p khoản 1 Điều 46; khoản 1, 2 Điều 60 của Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Đào Đình N và Vũ Văn H; áp dụng khoản 1 Điều 248; điểm h, p khoản 1 Điều 46, khoản 2 Điều 46, khoản 1, 2 Điều 60 của Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Tạ Văn T1 và Nguyễn Hải Đ. Xử phạt Nguyễn Kim T từ 09 tháng đến 11 tháng tù cho hưởng án treo, Đào Đình N từ 08 tháng đến 10 tháng tù cho hưởng án treo, Vũ Văn H từ 07 tháng đến 09 tháng tù cho hưởng án treo, Tạ Văn T1 và Nguyễn Hải Đ mỗi bị cáo từ 05 tháng đến 07 tháng tù cho hưởng án treo.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các T liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra- Công an huyện Yên Lạc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Yên Lạc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2].Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Khoảng 14 giờ 00 ngày 16 tháng 9 năm 2017, tại lán xe của gia đình anh Tạ Quang T ở thôn B, xã T, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc, các đồi tượng gồm: Nguyễn Kim T, Đào Đình N, Vũ Văn H, Nguyễn Hải Đ và Tạ Văn T1 đang cùng nhau thực hiện hành vi đánh bạc bằng hình thức đánh tiến lên miền Nam ăn tiền, thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc bắt quả tang, thu giữ  toàn bộ số tiền dùng vào việc đánh bạc là 17.125.000đ( Mười bảy triệu một trăm hai mươi lăm nghìn đồng ) và các vật chứng khác.

Xét lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án nên có đủ căn cứ khẳng định bị cáo Nguyễn Kim T và các đồng phạm phạm tội “Đánh bạc” được quy định tại khoản 1 Điều 248 của Bộ luật Hình sự.

Khoản 1 Điều 248 của Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền… có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng…, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm”.

Xét tính chất vụ án ít nghiêm trọng, nhưng hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, làm mất trật tự trị an và an toàn xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh tại địa phương. Hành vi đánh bạc của các bị cáo là một tệ nạn xã hội là nguyên nhân dẫn đến các hậu quả xã hội khác. Do đó cần xử phạt nghiêm các bị cáo nhằm đấu tranh ngăn chặn tệ nạn cờ bạc trong xã hội, giữ gìn trật tự công cộng, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản của công dân. Nhằm mục đích giáo dục cải tạo các bị cáo và đấu tranh phòng chống tội phạm.

Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử đã cân nhắc tính chất mức độ nguy hiểm của tội phạm, hậu quả xảy ra, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo, thấy rằng:

Bị cáo Nguyễn Kim T là người khởi xướng, rủ rê các bị cáo khác cùng tham gia sát phạt nhau được thua bằng tiền. Tuy nhiên, số tiền bị cáo Thái dùng vào việc đánh bạc không lớn 1.850.000đ, bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự lần đầu phạm tội và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo có nơi cư trú ổn định, rõ ràng, bố bị cáo là người được Nhà nước tặng thưởng huân chương. Do vậy, bị cáo Nguyễn Kim T được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, p khoản 1, Điều 46, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự. Xét thấy, không cần áp dụng hình phạt tù mà chỉ cần áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo đối với bị cáo Nguyễn Kim T cũng đủ để cải tạo giáo dục bị cáo trở thành người có ý thức chấp hành pháp luật.

Đối với bị cáo Đào Đình N là đồng phạm trong vụ án và trực tiếp tham gia đánh bạc ngay từ đầu, cũng như bị cáo Nguyễn Kim T, bị cáo Nghị là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự lần đầu phạm tội và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo có nơi cư trú ổn định, rõ ràng. Do vậy, bị cáo Đào Đình N được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, p khoản 1, Điều46 của Bộ luật Hình sự. Xét thấy, không cần áp dụng hình phạt tù mà chỉ cần áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo đối với bị cáo Đào Đình N cũng đủ để cải tạo giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.

Đối với bị cáo Vũ Văn H, Tạ Văn T1 và Nguyễn Hải Đ là các đồng phạm trong vụ án cùng với các bị cáo khác tham gia sát phạt nhau được thua bằng tiền. Tuy nhiên, số tiền các bị cáo dùng vào việc đánh bạc không lớn, các bị cáo đều là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự lần đầu phạm tội và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, các bị cáo có nơi cư trú ổn định, rõ ràng. Do vậy, các bị cáo H, T và Đ được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, p. Bị cáo T và Đ có bố được Nhà nước tặng thưởng Huân chương nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại  khoản 2, Điều 46 của Bộ luật Hình sự. Xét thấy, chỉ cần áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo đối với các bị cáo cũng đủ tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 3 Điều 248 của Bộ luật Hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng”.  Xét thấy, cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với tất cả các bị cáo là cần thiết.

[5]. Về xử lý vật chứng:  Cần áp dụng Điều 41 của Bộ luật hình sự; Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 17.125.000 đồng,01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 của Nguyễn Kim T, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5S của Đào Đình N, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galasy S6 của Nguyễn Hải Đ. Tịch thu, tiêu hủy 01 bộ bài Tulơkhơ 52 quân là công cụ các bị cáo sử dụng việc phạm tội. Trả lại cho bị cáo Đào Đình N 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5, trả cho bị cáo Vũ Văn H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 nhưng tiếp tục tạm giữ để bảo đảm thi hành án. Các vật chứng khác, Cơ quan điều tra đã xử lý trong quá trình giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về án Phí: Các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Kim T, Đào Đình N, Vũ Văn H, Tạ Văn T1và Nguyễn Hải Đ phạm tội “ Đánh bạc”.

1/ Áp dụng: Khoản 1 Điều 248, điểm h, p khoản 1 Điều 46, khoản 2 Điều46; khoản 1, 2 Điều 60 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Kim T.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Kim T 09 (chín) tháng tù cho hưởng án treo, thờigian thử thách 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

2/ Áp dụng: Khoản 1 Điều 248, điểm h, p khoản 1 Điều 46; khoản 1, 2Điều 60 của Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Đào Đình N và Vũ Văn H.

- Xử phạt bị cáo Đào Đình N 09 (chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Xử phạt bị cáo Vũ Văn H 07 (bảy) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 (một) năm 02 (hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

3/ Áp dụng khoản 1 Điều 248; điểm h, p khoản 1 Điều 46, khoản 2 Điều46, khoản 1, 2 Điều 60 của Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Tạ Văn T1 vàNguyễn Hải Đ.

- Xử phạt bị cáo Tạ Văn T1 06 (sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 (một) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Hải Đ 06 (sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 (một) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao các bị cáo Nguyễn Kim T, Đào Đình N, Vũ Văn H, Tạ Văn T1 và Nguyễn Hải Đ cho Uỷ ban nhân dân xã T, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp các bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án Hình sự.

4/ Áp dụng: Khoản 3 Điều 248 của Bộ luật hình sự. Xử phạt các bị cáo Nguyễn Kim T, Đào Đình N, Vũ Văn H, Tạ Văn T1 và Nguyễn Hải Đ mỗi bị cáo 3.000.000 đồng sung quỹ Nhà nước.

5/ Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 của Bộ luật hình sự; Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 17.125.000 đồng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 1280 của Nguyễn Kim T, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5S của Đào Đình N, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galasy S6 của Nguyễn Hải Đ. Tịch thu, tiêu hủy 01 bộ bài Tulơkhơ 52 quân là công cụ các bị cáo sử dụng việc phạm tội. Trả lại cho bị cáo Đào Đình N 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5, trả cho bị cáo Vũ Văn H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 nhưng tiếp tục tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

6/ Về án Phí: Áp dụng Điều 99 của Bộ luật tố tụng Hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Các bị cáo Nguyễn Kim T, Đào Đình N, Vũ Văn H, Tạ Văn T1 và Nguyễn Hải Đ mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

7/ Các bị cáo có quyền kháng cáo Bản án. Thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

765
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 51/2017/HSST ngày 22/11/2017 về tội đánh bạc

Số hiệu:51/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Lạc - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về