Bản án 51/2017/HNGĐ-ST ngày 26/12/2017 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC SƠN, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 51/2017/HNGĐ-ST NGÀY 26/12/2017 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 26 tháng 12 năm 2017  tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn – Tỉnh Hòa Bình.

Xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 174/2017/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 10 năm 2017 về việc tranh chấp hôn nhân và gia đình. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2017/QĐXXST - DS ngày 04/12/2017 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Lương Thị Thanh T, sinh năm 1983

Địa chỉ: Xóm A– Xã V - Huyện L – Tỉnh Hòa Bình (có mặt).

Bị đơn: Phạm Đức X, sinh năm 1975

Địa chỉ: Xóm – Xã V - Huyện L – Tỉnh Hòa Bình

(Vắng mặt tại phiên toà lần thứ 2)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 29/09/2017 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Lương Thị Thanh T trình bày:

Về hôn nhân: Qua tìm hiểu, trên cơ sở tự nguyện, ngày 10 tháng 12 năm 2006 chị và anh Phạm Đức X xác lập quan hệ hôn nhân. Việc kết hôn có tổ chức lễ cưới hỏi theo phong tục địa phương và đăng ký kết hôn tại UBND xã T - Huyện M - Tỉnh Lai Châu. Quá trình chung sống thời gian đầu cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, nhưng sau đó giữa hai vợ chồng luôn phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân do vợ chồng khác biệt nhau về quan điểm sống, lối sống. Do không chịu đựng được nên tháng 08/2017 chị T thuê nhà và sống ly thân với anh X từ thời gian đó cho đến nay. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị T làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh X.

Về con chung: Chị T và anh X có hai con chung là cháu Phạm Đức L, sinh ngày 19/05/2007 và Phạm Hà L, sinh ngày 27/07/2014. Nguyện vọng của chị T sau ly hôn mong muốn được trực tiếp nuôi con chung Phạm Hà L; còn anh X sẽ có trực tiếp nuôi con chung Phạm Đức L. Chị T chưa yêu cầu anh X phải đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung

Về tài sản chung, công nợ chung: Tự thỏa thuận chưa yêu cầu Tòa án giải quyết.

Các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn Phạm Đức X trình bày:

Về hôn nhân: Anh X thừa nhận việc xác lập quan hệ hôn nhân với chị Lương Thị Thanh T trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại UBND xã Thu L - Huyện M - Tỉnh Lai Châu. Quá trình chung sống hai vợ chồng không có mâu thuẫn gì trầm trọng. Nay chị T có đơn ly hôn, nhận thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn nên anh không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Anh X thừa nhận có hai con chung với chị T là cháu Phạm Đức L, sinh ngày 19/05/2007 và Phạm Hà L, sinh ngày 27/07/2014. Do không muốn ly hôn nên anh chưa đề cập tới vấn đề nuôi dưỡng và cấp dưỡng đối với các con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Nếu phải ly hôn sẽ tự thỏa thuận chưa yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành xác minh tình trạng hôn nhân tại địa phương nơi cư trú của các đương sự. Tại biên bản xác minh với ông Phạm Đức M- Trưởng xóm A – Xã V ngày 23/11/2017 thể hiện: Trong quá trình sinh sống tại địa phương, vợ chồng anh X và chị T không có biểu hiện đánh chủi nhau, còn thực tế mâu thuẫn bên trong như thế nào không rõ. Hiện tại anh X và chị T đã sống ly thân và xảy ra tình trạng bất đồng quan điểm sống, lối sống trầm trọng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn tham gia phiên tòa, kiểm sát viên Lê Xuân Trường phát biểu: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều diễn ra theo đúng trình tự, đầy đủ theo quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015. Về nội dung: Xét thấy mục đích hôn nhân giữa chị T và anh X không đạt được nên đề nghị HĐXX cho chị T được ly hôn với anh X. Về con chung trên cơ sở nguyện vọng của con chung, cần giao cháu Phạm Đức L cho anh X trực tiếp nuôi dưỡng; giao cháu Phạm Hà L cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng kể từ tháng 12/2017 trở đi cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi; đề nghị giải quyết các vấn đề liên quan khác theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định: Chị Lương Thị Thanh T và anh Phạm Đức X đều đăng ký nhân khẩu thường trú và hiện cư trú tại xã V - Huyện L – Tỉnh Hòa Bình. Do phát sinh mâu thuẫn trong đời sống hôn nhân và gia đình mà không thể tự giải quyết hàn gắn tình cảm được với nhau nên chị T yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh X và yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung nên đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình quy định tại khoản 1 Điều 28 và điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn – Tỉnh Hòa Bình.

Mặc dù đã được Tòa án triệu tập và tống đạt các văn bản tố tụng hợp pháp, nhưng anh X cố tình không hợp tác, không đến tham dự phiên tòa theo giấy triệu tập, gây khó khăn cho quá trình giải quyết vụ án với mục đích nhằm trốn tránh nghĩa vụ đối với chị T. Phiên tòa xét xử đã phải hoãn một lần do bị đơn Phạm Đức X vắng mặt không có lý do. Tại phiên toà hôm nay anh X tiếp tục vắng mặt, chị T vẫn yêu cầu ly hôn và đồng ý giải quyết vắng mặt anh X.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn – Tỉnh Hòa Bình vẫn tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Xét về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh X xác lập quan hệ hôn nhân ngày 10/12/2006 tại Ủy ban nhân dân xã T - Huyện M - Tỉnh Lai Châu trên cơ sở tự nguyện. Do đó quan hệ hôn nhân giữa các đương sự là hợp pháp. Qua lời khai của các đương sự và các tài liệu chứng cứ thu thập được trong quá trình giải quyết vụ án, xét thấy do bất đồng quan điểm sống, lối sống trầm trọng nên từ tháng 8/2017 cho đến nay chị T và anh X đã sống ly thân, không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau dẫn tới tình cảm vợ chồng không còn. Xét mâu thuẫn giữa chị Lương Thị Thanh T và anh Phạm Đức X đã trầm trọng, đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Lương Thị Thanh T là phù hợp các Điều 51; 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014.

[3] Xét vấn đề con chung: Cháu Phạm Đức L, sinh ngày 19/05/2007 hiện đang được anh X trực tiếp nuôi dưỡng; trên cơ sở nguyện vọng của cháu L muốn được bố trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy hiện tại anh X có đủ điều kiện về vật chất và tinh thần để nuôi dưỡng, do đó giao con chung Phạm Đức L cho anh Phạm Đức X trực tiếp nuôi dưỡng. Đối với con chung Phạm Hà L, hiện còn nhỏ, xét thấy hiện tại chị T có đủ điều kiện để nuôi dưỡng nên cần giao cháu L cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng là thấu tình, đạt lý, phù hợp với quy định tại điều 58; 81; 82; 83 của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014. Do chị T chưa yêu cầu anh X phải đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung; anh X vắng mặt tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử không đặt ra vấn đề cấp dưỡng.

[4] Về tài sản chung, công nợ chung: Quá trình tham gia tố tụng và tại phiên Tòa hôm nay các đương sự chưa yêu cầu giải quyết. Do đó HĐXX không đề cập.

[5] Về án phí: Nguyên đơn Lương Thị Thanh T chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 51; 56; 58; 81; 82; 83; 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228;  Điều 235; 271; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu,miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1.Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Lương Thị Thanh T và anh Phạm Đức X.

2. Về con chung: Giao con chung Phạm Đức L, sinh ngày 19/05/2007 cho anh Phạm Đức X và giao con chung Phạm Hà L, sinh ngày 27/07/2014 cho chị Lương Thị Thanh T trực tiếp nuôi dưỡng kể từ tháng 12/2017 trở đi cho đến khi thành niên (đủ 18 tuổi). Các bên chưa phải đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung và  đều có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con,khi có yêu cầu của một hoặc hai bên đương sự hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung.

3.Về tài sản chung, công nợ chung: Không đề cập giải quyết.

4.Về án phí: Nguyên đơn Lương Thị Thanh T phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm. Được đối trừ vào số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí nguyên đơn đã nộp theo biên lai số: 0004212 ngày 03 tháng 10 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lạc Sơn - Tỉnh Hoà Bình. Nay không phải nộp án phí nữa.

5. Đã báo cho nguyên đơn có mặt tại phiên toà biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án hoặc trích lục án được niêm yết công khai tại địa phương nơi cư trú hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

329
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 51/2017/HNGĐ-ST ngày 26/12/2017 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:51/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Sơn - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về