TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 511/2019/HS-ST NGÀY 05/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 05 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 485/2019/TLST ngày 10/10/2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 499/2019/QĐXXST - HS ngày 14 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:
Mã Quốc T, sinh năm 1992, tại Kiên Giang; Hộ khẩu thường trú: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Kiên Giang; Nơi cư trú: Bị cáo không có nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Mã Phi H, sinh năm 1966 và bà Phạm Thị H1, sinh năm 1966.
Bị cáo có 01 tiền án: Ngày 24/02/2017 bị Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 62/2017/HSST).
Tiền sự: Không.
Bị bắt ngày 19/7/2019 - Bị cáo có mặt.
- Người bị hại: Anh Nguyễn Văn P, sinh năm 1992 - Vắng mặt.
Địa chỉ: 65R, tổ 3, khu phố 4, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn 1, sinh năm 1990 và chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1990.
Cùng địa chỉ: 65R, tổ 3, khu phố 4, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Để có tiền tiêu xài, Mã Quốc T đã nảy sinh ý định đi trộm cắp tài sản. Thực hiện ý định trên, khoảng 02 giờ ngày 18/7/2019. Mã Quốc T mượn xe mô tô nhãn hiệu Wave không rõ biển số của một người tên T2 chưa rõ họ, địa chỉ điều khiển xe đi tìm nhà ai sơ hở trong việc quản lý tài sản thì trộm cắp. Khi đi ngang qua nhà số 65R, tổ 3, khu phố 4, phường A, thành phố B thì T phát hiện cửa cổng nhà không khóa, trong sân có dựng 03 xe mô tô nên T dừng xe lại và gọi điện cho một người bạn tên N chưa rõ họ tên địa chỉ kêu N đến hỗ trợ T lấy trộm xe thì N đồng ý. Sau đó, N cùng một người không rõ họ tên địa chỉ điều khiển xe mô tô không rõ biển số đi đến gặp T. Khi gặp được N và bạn N thì T giao xe mô tô của T2 cho bạn N giữ còn T đi vào trong sân dắt chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, biển số 37N1 - 283.85 số khung 3819 GY139894, số máy JA 38E0301288 của anh Nguyễn Văn P ra ngoài. T đẩy bộ được khoảng 50m thì ngồi lên xe vừa trộm cắp được để cho bạn tên N điều khiển xe mô tô đẩy về khu du lịch S. Tại đây, T đem xe mô tô của anh P cất giấu vào trong bụi cây rồi cả ba đi về nhà. Khoảng 06 giờ cùng ngày, T quay lại nơi cất giấu xe rồi rút dây điện nổ máy điều khiển xe đi về B chơi. Khi đang lưu thông trên đường ĐT748 thì biển số xe rớt ra ngoài nên khi đi đến đoạn đường thuộc phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương thì bị công an lập biên bản chuyển hồ sơ cho cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B điều tra xử lý.
Vật chứng vụ án: Gồm 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX biển số 37N1 - 283.85 bị cáo chiếm đoạt đã thu hồi trả lại cho chủ sở hữu là anh Nguyễn Văn P; 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 của Mã Quốc T sử dụng vào việc phạm tội; Đối với 01 bộ dụng cụ dùng để mở khóa gồm 03 chìa khóa bằng kim loại có đầu nhọn, 02 miếng kim loại đầu dẹp hình chữ Z, 02 đoản kim loại có 01 đầu tròn một đầu nhọn bị cáo T khai nhặt được hiện chưa xác định là của ai; Đối với 01 biển số xe mô tô 37N1 - 283.85, T làm mất hiện không thu hồi được; Đối với 01 xe mô tô không rõ biển số T sử dụng phạm tội T khai do T mượn của người tên T2 không rõ họ, địa chỉ và T không biết T mượn xe sử dụng vào việc phạm tội nên cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố B không truy tìm chiếc xe mô tô trên.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 293/TCKH - HĐĐG ngày 23/7/2019 của Hội đồng định giá tài sản thành phố B kết luận: “01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, biển số 37N - 283.85 có giá trị định giá là 19.341.000đ”.
Về dân sự: Anh Nguyễn Văn P đã nhận lại 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, biển số 37N1 - 283 - 85 nên không yêu cầu bồi thường thêm.
Tại cáo trạng số 496/CT/VKSBH ngày 08 tháng 10 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo Mã Quốc T về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát trình bày lời luận tội, phân tích tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị xử phạt bị cáo mức hình phạt từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Khoảng 02 giờ 00 phút, ngày 18/7/2019, Mã Quốc T cùng đối tượng tên N và bạn của N không rõ họ tên địa chỉ có hành vi trộm cắp 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave RSX, biển số 37N1 - 282.85 trị giá 19.341.000đ của anh Nguyễn Văn P, sau đó bị phát hiện bắt giữ. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai người bị hại, người làm chứng và các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.
[2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản thuộc sở hữu của người khác, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Tại bản án số 62/2017/HSST ngày 24/02/2017, bị cáo Tân đã bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa kết án 01 năm 06 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản" chưa được xóa án tích, bị cáo cũng chưa bồi thường xong cho những người bị hại nay lại tiếp tục phạm tội thể hiện bản tính coi thường pháp luật, không tu dưỡng rèn luyện để trở thành người có ích cho xã hội nên cần phải có mức án nghiêm tương xứng với tính chất mức độ của hành vi phạm tội, nhằm giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.
[3] Tuy nhiên khi lượng hình, hội đồng xét xử đã xem xét bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải, tài sản đã trả lại cho người bị hại để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện tính nhân đạo của pháp luật nhà nước ta.
[4] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX biển số 37N1 - 283.85 bị cáo chiếm đoạt đã thu hồi trả lại cho chủ sở hữu là anh Nguyễn Văn P nên không xem xét thêm. Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 của Mã Quốc T sử dụng vào việc phạm tội cần tịch thu sung quỹ nhà nước. Đối với 01 bộ dụng cụ dùng để mở khóa gồm 03 chìa khóa bằng kim loại có đầu nhọn, 02 miếng kim loại đầu dẹp hình chữ Z, 02 đoản kim loại có 01 đầu tròn một đầu nhọn bị cáo Tân khai nhặt được hiện chưa xác định là của ai nên kiến nghị cơ quan Công an thành phố B tiếp tục điều tra, làm rõ xử lý sau. Đối với 01 biển số xe mô tô 37N1 - 283.85, T khai làm mất và cơ quan điều tra cũng không thu hồi được nên không xem xét. Đối với 01 xe mô tô không rõ biển số T sử dụng vào việc phạm tội, T khai do T mượn của người tên T2 không rõ họ, địa chỉ và T2 không biết T mượn xe sử dụng vào việc phạm tội nên cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố B không truy tìm chiếc xe mô tô trên.
[5] Đối với tên T2 không rõ nhân thân địa chỉ cho T mượn xe mô tô không biển số để làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội. Quá trình điều tra T khai T2 không biết T sử dụng vào việc phạm tội nên cơ quan điều tra không xử lý T là có căn cứ.
[6] Đối với người tên N và bạn của N không rõ họ tên địa chỉ có hành vi giúp sức cho T, kiến nghị cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ;
[7] Về trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Văn P đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét.
[8] Quá trình điều tra vụ án, anh Nguyễn Văn T và chị Nguyễn Thị L trình báo mất trộm thêm 02 chiếc xe mô tô gồm 02 chiếc xe nhãn hiệu Honda Wa Alpha biển số 37L2 - 3694 và 01 chiếc xe nhãn hiệu Honda Wave Alpha biển số 37U2 - 2378. Tuy nhiên, quá trình điều tra Mã Quốc T chỉ thừa nhận lấy trộm 01 chiếc xe mô tô của anh P. Ngoài lời khai của anh T1, chị L thì không có chứng cứ nào khác để xác định T trộm cắp tài sản của anh T1, chị L nên kiến nghị cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B tiếp tục điều tra làm rõ 02 chiếc xe mô tô trên.
[9] Về án phí: BỊ cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Mã Quốc T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Xử phạt bị cáo: Mã Quốc T 02 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 19/7/2019.
Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nikia 105 màu đen đã qua sử dụng imei 355813095474232 (theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/11/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố B).
Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết tại địa phương.
Bản án 511/2019/HS-ST ngày 05/11/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 511/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về