Bản án 50/2020/HS-ST ngày 24/11/2020 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NĐ, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 50/2020/HS-ST NGÀY 24/11/2020 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 24 tháng 11 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện NĐ, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 49/2020/TLST-HS ngày 16 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 55/2020/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2020 đối với:

Bị cáo: Trần Đình T. Sinh năm 1974 tại xã HNg, huyện HN, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Xóm 16, xã HNg, huyện HN, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Đình Trương và bà Phan Thị Loan; Có vợ: Nguyễn Thị Bình và 02 con, sinh năm 1988 và sinh năm 2003; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam. Có mặt.

- Bị hại: Bà Phạm Thị Liên (đã chết).

- Đại diện hợp pháp của bị hại bà Phạm Thị Liên:

1. Ông Lê Văn Thiều. Sinh năm 1955. Nơi cư trú: Khối 1, phường Quán Bàu, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Là chồng của bị hại.

2. Anh Lê Huy Chung. Sinh năm 1978. Nơi cư trú: Khối 1, phường Quán Bàu, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Là con của bị hại.

3. Anh Lê Đức Hạnh. Sinh năm 1982. Nơi cư trú: Khối 1, phường Quán Bàu, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Là con của bị hại.

4. Chị Lê Thị Hồng Hà. Sinh năm 1984. Nơi cư trú: Khối 4, phường Lê Lợi, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Là con của bị hại.

Đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng của anh Chung, anh Hạnh và chị Hà: Ông Lê Văn Thiều. Sinh năm 1955. Nơi cư trú: Khối 1, phường Quán Bàu, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. (theo văn bản ủy quyền lập ngày 04/9/2020). Có mặt.

- Những người làm chứng:

Ông Hoàng Văn Kiều. Sinh năm 1962 và bà Nguyễn Thị Hà. Sinh năm 1965. Đều cư trú tại: Xóm Thanh Đầm, xã Hùng Tiến, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

Ông Phạm Thanh Hải. Sinh năm 1940. Nơi cư trú: Khối Dũng Quyết, phường Trung Đô, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 16 giờ 30 phút ngày 02/6/2020, Trần Đình T có giấy phép lái xe ô tô hạng C, điều khiển xe ô tô nhãn hiệu THACO, màu xanh, biển kiểm soát 37C- 043.50 của mình chở than đi từ thành phố Vinh đến nhà máy gạch 30/4 thuộc xã Thanh Khai, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An lưu thông trên Quốc lộ 46. Khi đi đến Km 27+900 thuộc địa phận xóm Thanh Đầm, xã Hùng Tiến, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An. Trọng phát hiện phía trước cách xe của mình khoảng 30 - 40m có một người đàn ông điều khiển xe mô tô chạy cùng chiều phía trước gần va chạm với bà Phạm Thị Liên đang đi bộ từ bên phải sang bên trái đường (theo hướng thành phố Vinh – NĐ) nhưng lái xe mô tô đã tránh được và nhắc nhở bà Liên về việc đi qua đường. Lúc này, Trọng thấy bà Liên đứng lại ở phần đường bên phải cách vạch đường màu trắng nét đứt phần chia các làn xe cùng chiều khoảng 2 – 3m (theo hướng thành phố Vinh – NĐ), cho rằng bà Liên không đi tiếp nên Trọng điều khiển xe sang làn đường bên trái để vượt qua. Khi xe chạy gần đến vị trí bà Liên đang đứng thì bất ngờ bà Liên đi sang phần đường bên trái. Do khoảng cách quá gần, Trọng không kịp xử lý nên ba-đơ-xốc của xe ô tô đã đâm vào phần hông bên trái của bà Liên làm bà Liên ngã xuống đường, sáu đó bánh xe ô tô phía trước bên phải đè qua người. Hậu quả làm bà Liên tử vong tại chỗ.

Tại Bản kết luận giám định pháp y số 24 ngày 26/6/2020 của Trung tâm y tế tỉnh Nghệ An, kết luận: Nguyên nhân dẫn đến cái chết của bà Phạm Thị Liên là: “1. Dấu hiệu chính qua giám định: Đa chấn thương: Trật đốt sống cổ C3, C4; gãy toàn bộ cung trước xương sườn hai bên; các đốt sống ngực mất vững; gãy kín 1/3 trên xương cánh tay trái; gãy kín 1/3 dưới xương cẳng tay bên trái. 2, Nguyên nhân chết: Nạm nhân Phạm Thị Liên tử vong do đa chấn thương: Trật đốt sống cổ C3, C4; gãy toàn bộ cung trước xương sườn hai bên; các đốt sống ngực mất vững”.

Tại các biên bản khám nghiệm, sơ đồ hiện trường thể hiện:

Vụ tại nạn giao thông xảy ra tại Km 27+900, Quốc lộ 46 thuộc địa phận xóm Thanh Đầm, xã Hùng Tiến, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An.Thời tiết khô ráo, không mưa, ánh sáng tự nhiên và ánh sáng đèn đủ điều kiện khám nghiệm. Đoạn đường thẳng, không bị che khuất tầm nhìn, chạy hướng Tây Bắc (đi qua huyện NĐ), Đông Nam (đi thành phố Vinh). Mặt đường rải thảm nhựa tương đối bằng phẳng, được chia thành 4 làn đường, giữa tâm đường là vạch kẻ chia làn đường nét đứt, màu vàng, hai bên là vạch kẻ đường màu váng nét liền. Lần lượt từ phải qua trái nhìn theo hướng Tây Bắc - Đông Nam thì chiều rộng của các làn đường là 2,4m:

3,45m; 3,5m; 2,5m. (vị trí các điểm cụ thể theo biên bản khám nghiệm hiện trường vụ án bút lục số 25 hồ sơ vụ án).

Cáo trạng số 51A/CT-VKSNĐ ngày 14/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện NĐ, tỉnh Nghệ An đã truy tố Trần Đình T về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung cáo trạng, luận tội và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trần Đình T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Áp dụng: điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Trần Đình T mức án từ 15 đến 18 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 30 đến 36 tháng. Miễn hình phạt bổ sung là cấm hành nghề đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Đại diện hợp pháp của bị hại không có yêu cầu gì nên không yêu cầu giải quyết.

Về xử lý vật chứng: Các vật chứng liên quan đến vụ án đã trả lại cho chủ sở hữu nên không đề nghị xem xét.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Đình T đồng ý với nội dung bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không có tranh luận gì.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo rất ân hận về hành vi của mình. Kính mong Hội đồng xét xử cho bị cáo cải tạo tại địa phương để có cơ hội chăm sóc gia đình.

Đại diện hợp pháp của bị hại trình bày: Về trách nhiệm dân sự: Gia đình bị hại đã nhận số tiền bồi thường thiệt hại đầy đủ từ bị cáo nay không có yêu cầu gì thêm; Về trách nhiệm hình sự: Đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện NĐ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện NĐ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa, vắng mặt người làm chứng nhưng sự vắng mặt này không ảnh hưởng đến việc xét xử nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án là đúng quy định Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Trần Đình T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp biên bản khám nghiệm hiện trường, kết luận giám định và phù hợp với các tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 16 giờ 30 phút, ngày 02/6/2020, tại Km 27 + 900 đường quốc lộ 46 thuộc địa phận xóm Thanh Đầm, xã Hùng Tiến, huyện NĐ, tỉnh Nghệ An, Trần Đình T điều khiển xe ô tô nhãn hiệu THACO, mang biển kiểm soát 37C-043.50 chở than đi từ thành phố Vinh đến nhà máy gạch 30/4 thuộc xã Thanh Khai, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An đi sai làn đường, qua làn đường ngược chiều gây tai nạn giao thông với bà Phạm Thị Liên. Hậu quả làm bà Liên tử vong. Hành vi trên của bị cáo đã vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 9 của Luật giao thông đường bộ. Đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[4] Xét tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Vụ án có tính chất nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến tính mạng của người khác, làm mất trật tự an toàn xã hội và gây tâm lý lo lắng cho người tham gia giao thông nên cần xử lý nghiêm. Tuy nhiên, cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo do bị cáo: Tự nguyện bồi thường thiệt hại và khắc phục hậu quả. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đại diện hợp pháp của bị hại có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự, xin cho bị cáo được hưởng án treo. Bị cáo có bố Trần Đình Trương được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhất. Mẹ bị cáo là bà Phan Thị Loan được cấp giấy chứng nhận tham gia dân công hỏa tuyến. Bị hại bà Phạm Thị Liên có một phần lỗi trong việc đi qua đường không đảm bảo an toàn. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xét thấy: Bị cáo có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng, có nơi cư trú rõ ràng, không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù mà có khả năng tự cải tạo tại địa phương nên việc cho bị cáo được hưởng án treo không ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

[5] Về trách nhiệm dân sự:

Bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại đã tự nguyện thỏa thuận mức bồi thường thiệt hại. Nay các đại diện hợp pháp của bị hại không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là cấm hành nghề đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Các vật chứng liên quan đến vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện NĐ đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định pháp luật.

[8] Các đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phù hợp với nhận đình của Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và điều luật áp dụng: Tuyên bố bị cáo Trần Đình T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Đình T: 15 (mười lăm) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo cho UBND xã HNg, huyện HN, tỉnh Nghệ An nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Trần Đình T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2020/HS-ST ngày 24/11/2020 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:50/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nam Đàn - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về