Bản án 50/2020/HSST ngày 15/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ SÊ, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 50/2020/HSST NGÀY 15/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 15 tháng 12 năm 2020, tại Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 65/2020/TLST- HS ngày 13 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2020/QĐXXST – HS ngày 26 tháng 11 năm 2020 đối với:

- Bị cáo: Kpuih H (Tên gọi khác: Kpuih B); Sinh ngày 16/7/2003. Tại: Gia Lai. Nơi cư trú: làng Plei Đ, xã IaH, huyện P, tỉnh Gia Lai. Trình độ học vấn: 1/12. Nghề nghiệp: Làm nông. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Jarai; Tôn giáo: Không. Bố: Ksor H, sinh năm 19xx; Mẹ: Kpuih H’T, sinh năm 19xx. Gia đình bị cáo có sáu anh em bị cáo là con thứ hai trong gia đình. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 17/8/2020 đến ngày 26/8/2020. Ngày 26/8/2020, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Chư Sê khởi tố và được áp dụng biện pháp ngăn chặn là bảo lĩnh cho đến nay. Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

- Người đại diện hợp pháp cho bị cáo: ông Ksor N, sinh năm 19xx và bà Kpuih H’T, sinh năm 19xx; Địa chỉ: Làng Plei Đ, xã Ia H, huyện P, tỉnh Gia Lai. (ông N vắng mặt và bà H’T có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Trang Thị Thùy D – Trợ giúp viên pháp lý thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Gia Lai. (có mặt).

- Bị hại:

1. Ông Ksor Ch, sinh năm 1978; Địa chỉ: Làng K, xã H, huyện C, tỉnh Gia Lai. (vắng mặt).

2. Ông Ksor J, sinh năm 19xx; Địa chỉ: Làng K, xã H, huyện C, tỉnh Gia Lai. (vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghiã vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Siu Đ, sinh ngày 25/9/2005; Địa chỉ: Làng Đ, xã Ia H, huyện P, tỉnh Gia Lai (có mặt).

Có người đại diện theo pháp luật là ông Ksor H, sinh năm 19xx và bà Siu H’L, sinh năm 19xx; Địa chỉ: Làng Plei Đ, xã Ia H, huyện P, tỉnh Gia Lai. (ông H vắng mặt, bà H’L có mặt).

2. Anh Ksor L, sinh ngày 05/10/2004; Địa chỉ: Làng Plei Đ, xã Ia H, huyện P, tỉnh Gia Lai. (có mặt).

Có người đại diện theo pháp luật là ông Rah Lan G, sinh năm 19xx và bà Siu H’Q, sinh năm 19xx; Địa chỉ: Làng Plei Đ, xã Ia H, huyện P, tỉnh Gia Lai. (ông G vắng mặt, bà H’Q có mặt).

- Người phiên dịch tiếng Jrai: Bà Nay H’Ch – Cán bộ Hưu trí Thị trấn C, huyện C, tỉnh Gia Lai. (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 20 giờ ngày 14/8/2020, Siu Đ đến nhà Kpuih H tại làng Plei Đ, xã IaH, huyện P, tỉnh Gia Lai chơi. Lúc này, Kpuih H rủ Siu Đ đi bộ đến xã H, huyện Chư Sê để trộm cắp xe mô tô đem về sử dụng. Siu Đ đồng ý. Khi Kpuih H và Siu Đ đi đến làng K, xã H, huyện C, Gia Lai, Kpuih H nhìn thấy chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 81H6 - 0116 của anh Ksor C sinh năm 19xx, trú tại làng K, xã H, huyện Chư Sê, Gia Lai, đang để ngoài sân không có người trông coi, trên xe còn chìa khóa. Lúc này, Siu Đ đứng ngoài đường cảnh giới để Kpuih H đi vào sân và trộm chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 81H6 - 0116. Sau khi trộm cắp xong Siu Đ và Kpuih H tiếp tục đi đến nhà anh Ksor J sinh năm 1984, trú tại làng K, xã H, huyện C, tỉnh Gia Lai, Kpuih H và Siu Đ phát hiện xe mô tô biển kiểm soát: 82B1 - 593.90 anh J đang để ngoài sân không có người trông coi nên Kpuih H dừng xe đứng ngoài đường cảnh giới để Siu Đ đi vào trộm cắp chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 82B1 - 593.90. Đến khoảng 04 giờ sáng ngày 15/8/2020, Kpuih H và Siu Đ đem 02 (hai) chiếc xe mô tô trộm cắp được đến nhà Ksor L sinh ngày 05/10/2004, trú tại làng Plei Đ, xã IaH, huyện P, tỉnh Gia Lai cất giấu rồi về nhà ngủ. Đến khoảng 07 giờ sáng ngày 15/8/2020, Kpuih H và Siu Đ đến nhà Ksor L để chia tài sản trộm cắp được, Kpuih H được chia chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 82B1 - 593.90, còn Siu Điệp được chia chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 81H6 - 0116. Đến ngày 17/8/2020, nhận thức hành vi của mình là trái pháp luật nên Kpuih H, Siu Đ đã đến cơ quan công an đầu thú, khai nhận hành vi vi phạm của bản thân và giao nộp lại tài sản đã trộm cắp.

Ngày 17/8/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Chư Sê đã ra yêu cầu định giá tài sản đối với xe mô tô biển kiểm soát: 81H6 - 0116, và xe mô tô biển kiểm soát: 82B1 - 593.90.

Ngày 18/8/2020, Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Chư Sê đã ra kết luận định giá tài sản số: 55/KL-HĐĐG xác định kết luận: 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát: 81H6 - 0116, nhãn hiệu Yamaha Jupiter, đã qua sử dụng, mua vào năm 2004, có giá trị là: 2.500.000đ (Hai triệu năm trăm ngàn đồng); 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát: 82B1 - 593.90, nhãn hiệu Yamaha Sirius, đã qua sử dụng, mua vào năm 2006, có giá trị là: 2.350.000đ (Hai triệu ba trăm năm mươi ngàn đồng).

Như vậy tổng giá trị tài sản mà Siu Đ và Kpuih H đã chiếm đoạt trong vụ án này là: 4.850.000 đồng (Bốn triệu tám trăm năm mươi ngàn đồng).

* Về vật chứng của vụ án:

+ Đối với 01 (một) chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 81H6 - 0116 đây là tài sản của anh Ksor C. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Chư Sê đã trao trả lại cho anh Ksor C.

+ Đối với 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát: 82B1 - 593.90 là tài sản hợp pháp của anh Ksor J. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện Chư Sê đã trao trả lại cho anh Ksor J.

* Về dân sự: Gia đình Kpuih H và Siu Đ đã bồi thường cho anh Ksor C số tiền 1.000.000 đồng và anh Ksor J số tiền là 1.000.000, anh Ksor C và anh Ksor J đã viết đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho Kpuih Hmui.

Tại Bản cáo trạng số 56/CT–VKS ngày 13/11/2020, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai đã truy tố bị cáo Kpuih H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1, Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên xử bị cáo bị cáo Kpuih H phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1, Điều 173; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b s khoản 1,2 Điều 51; Điều 90, Điều 91, Điều 101 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Bị cáo Kpuih H từ 09 đến 12 tháng tù.

Người bào chữa cho bị cáo: Thống nhất với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Mặc dù bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ như trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã bồi thường thiệt hại cho người bị hại đề khắc phục hậu quả, bị cáo có nhân thân tốt, khi phạm tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi, sống ở vùng kinh tế khó khăn, gia đình bị cáo thuộc hộ cận nghèo, trình độ học vấn thấp nên ảnh hưởng phần nào đến khả năng nhận thức của bị cáo, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự đồng thời bị cáo là người chưa thành niên do đó đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức thấp của khung hình phạt là 06 tháng nhưng cho hưởng án treo.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Chư Sê, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về căn cứ kết tội đối với bị cáo: Vào lúc 20 giờ ngày 14/8/2020, tại làng K, xã H, huyện C, tỉnh Gia Lai, Kpuih H đã có hành vi trộm cắp 01 (một) chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 81H6 - 0116 trị giá 2.500.000 đồng của anh Ksor C và 01 (một) chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 82B1 - 593.90 trị giá 2.350.000 đồng của anh Ksor J. Tổng giá trị tài sản trộm cắp là: 4.850.000 đồng.

Hành vi của Kpuih H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1, Điều 173 Bộ luật hình sự sự đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm quyền sở hữu về tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an xã hội, Kpuih H muốn có tiền tiêu xài cá nhân mà không chịu lao động chính đáng nên đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người khác. Bên cạnh đó, sự sơ hở, thiếu cảnh giác trong việc quản lý tài sản của những bị hại là điều kiện dẫn đến hành vi vi phạm của bị cáo. Trong thời gian gần đây, loại tội phạm “Trộm cắp tài sản” ngày càng tăng và diễn biến phức tạp gây hoang mang cho nhân dân trong việc quản lý tài sản, bất cứ lúc nào cũng có thể bị kẻ gian lén lút chiếm đoạt. Do đó, việc đưa bị cáo ra xét xử là cần thiết nhằm giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm.

[3]. Về nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì thấy rằng:

Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì thấy rằng bị cáo Kpuih H có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xét về nhân thân bị cáo thì thấy rằng bị cáo có nhân thân tốt.

Xét về tình tiết tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy rằng: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả cho bị hại, được đại diện bị hại viết đơn xin giảm nhẹ hình phạt. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải. Sau khi phạm tôi đã ra đầu thú khai nhận hành vi phạm tội. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1,2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Khi phạm tội bị cáo là người dưới 18 tuổi (17 năm 00 tháng 29 ngày) nên được áp dụng các quy định về người chưa thành niên phạm tội quy định tại Điều 91, Điều 101 Bộ luật Hình sự.

Do đó cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm mục đích giáo dục, cải tạo bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

[4]. Về các hành vi khác:

Đối với hành vi trộm cắp tài sản 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 81P1- 258.89 vào ngày 15/8/2020 của Siu Đ cùng với bị cáo thì thấy rằng Siu Đ giữ vai trò là người trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Tuy nhiên Siu Đ sinh ngày 25/9/2005, tính đến thời điểm phạm tội Siu Đ chưa đủ 15 tuổi nên chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nên không phải đồng phạm trong vụ án này. Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Chư Sê đã ra Quyết định xử phạt hành chính đối với Siu Đ bằng hình thức Cảnh cáo, theo quy định Luật xử lý vi phạm hành chính đúng quy định của pháp luật là phù hợp do đó miễn xét.

Ksor Líu sinh ngày 05/10/2004, quá trình Kpuih H và Siu Đ trộm cắp xe mô tô sau đó đem về cất giấu phía sau nhà Ksor L thì Ksor L không tham gia và không biết việc Kpuih H và Siu Đ giấu xe mô tô ở nhà L. Do đó không tiến hành xử lý hình sự đối với Ksor L là phù hợp do đó miễn xét.

[5]. Về vật chứng vụ án:

Đối với 01 (một) chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 81H6 - 0116 đây là tài sản của anh Ksor C. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Chư Sê đã trao trả lại cho anh Ksor C là đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử miễn xét.

Đối với 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát: 82B1 - 593.90 là tài sản hợp pháp của anh Ksor J. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Chư Sê đã trao trả lại cho anh Ksor J đúng quy định của pháp luật.

[6]. Về dân sự: Gia đình Kpuih H và Siu Đ đã bồi thường cho anh Ksor C số tiền 1000.000 đồng và anh Ksor J số tiền là 1.000.000 đồng, anh Ksor C và anh Ksor J đã viết đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho Kpuih H. Nên hội đồng xét xử miễn xét.

[7]. Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên xử: Bị cáo Kpuih H (Tên gọi khác: Kpuih B), phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 12, Điều 50; điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 90, Điều 91, Điều 101 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Kpuih H 09 (Chín) tháng tù trừ đi thời hạn tạm giữ từ ngày 17/8/2020 đến ngày 26/8/2020. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án.

2. Về dân sự: Miễn xét.

3. Vật chứng vụ án: Miễn xét.

4. Về án phí:

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 21, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án: Xử: Buộc bị cáo Kpuih H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung vào công quỹ Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm. Riêng bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

268
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2020/HSST ngày 15/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:50/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chư Sê - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về