Bản án 50/2020/HNGĐ-ST ngày 27/08/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình giữa chị T2 và anh H

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T1, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 50/2020/HNGĐ-ST NGÀY 27/08/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH GIỮA CHỊ T2 VÀ ANH H

Ngày 27 tháng 8 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T1, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 115/TB-TLVA ngày 05 tháng 6 năm 2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 51/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 7 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 42/2020/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đoàn Thị T2, sinh năm 1992.

Địa chỉ: Thôn NT, xã NC, huyện T1, tỉnh Thái Bình (chị T2 vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1985.

Địa chỉ: Thôn NLT, xã NH, huyện T1, tỉnh Thái Bình (anh H vắng mặt lần thứ hai không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Đoàn Thị T2 trình bày:

Chị và anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1985, có địa chỉ tại thôn NLT, xã NH, huyện T1, tỉnh Thái Bình tự nguyện tìm hiểu và kết hôn với nhau vào ngày 14/01/2011 được Uỷ ban nhân dân xã NH, huyện T1, tỉnh Thái Bình chứng nhận kết hôn. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống và làm việc tại tỉnh B. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình không hợp, anh H ham chơi không chăm lo cho gia đình, vợ con, dẫn đến cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Năm 2018, anh H về Thái Bình sinh sống và làm việc. Tháng 01/2020, chị về Thái Bình, sau đó lên ĐB và sinh sống một thời gian rồi lại về gia đình nhà ngoại tại thôn NT, xã NC, huyện T1, tỉnh Thái Bình. Nay xác định tình cảm không còn, không thể quay về chung sống và đoàn tụ được nữa, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H.

Về con chung, theo chị T2, chị và anh H có 01 con chung là Nguyễn Thị Huyền Tr, sinh ngày 28/3/2012. Hiện nay, cháu Tr đang ở với chị. Ly hôn, chị đề nghị Tòa án giao cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Tr, chị không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.

Về tài sản chung, chị T2 không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã gửi cho anh Nguyễn Văn H thông báo thụ lý, thông báo đến phiên công khai chứng cứ và hòa giải tuy nhiên anh H không đến Tòa án.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 25/6/2020 tại gia đình bà Ngô Thị R, sinh năm 1935, trú tại thôn NLT, xã NH, huyện T1, tỉnh Thái Bình (bà R là bà ngoại anh Nguyễn Văn H) bà R trình bày:

Bà là bà ngoại của anh Nguyễn Văn H và ở cùng nhà với anh H. Theo bà R, anh H và chị T2 tự nguyện tìm hiểu và kết hôn với nhau tại UBND xã NH, huyện T1, tỉnh Thái Bình vào ngày 14/01/2011. Quá trình chung sống hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp nhau. Chị T2 xin ly hôn anh H, anh H và gia đình có biết, gia đình mong muốn anh, chị đoàn tụ nhưng nếu chị T2 kiên quyết ly hôn thì gia đình bà cũng đồng ý.

Quá trình chung sống anh H và chị T2 có 01 con chung là Nguyễn Thị Huyền Tr, sinh ngày 28/3/2012, hiện nay con chung đang ở cùng với mẹ. Nếu ly hôn, quan điểm của gia đình đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Theo bà R, anh H và chị T2 không có tài sản chung và nợ chung; hai anh, chị khi cưới về thì ở chung với gia đình bà. Theo bà R, anh H hiện đang đi làm ăn tại Hà Nội, địa chỉ cụ thể ở đâu, bà không nắm được. Anh H vẫn thường xuyên về thăm gia đình. Theo bà R, anh H có nhận được các văn bản của Tòa án.

Qua gia đình, anh H đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt do đi làm ăn xa.

Tại biên bản xác minh ngày 25 tháng 6 năm 2020 tại Trụ sở UBND xã NH, huyện T1, tỉnh Thái Bình, ông Hoàng Chung T3, Phó Chủ tịch UBND và ông Đỗ Văn L, Cán bộ Tư pháp UBND xã NH cung cấp:

Chị Đoàn Thị T2 và anh Nguyễn Văn H tự nguyện tìm hiểu, đăng ký kết hôn tại UBND NH, huyện T1, tỉnh Thái Bình vào ngày 14/01/2011. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống cùng nhau tại địa phương. Quá trình chung sống có phát sinh mâu thuẫn. Tuy nhiên, nguyên nhân mâu thuẫn cụ thể như thế nào địa phương không nắm được. Nay chị T2 có đơn xin ly hôn anh H, quan điểm của địa phương là đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Quá trình chung sống, anh Hvà chị T2 có 01 con chung là Nguyễn Thị Huyền Tr, sinh ngày 28/3/2012, hiện nay con chung đang ở cùng với mẹ. Nếu ly hôn, quan điểm của địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Anh H, chị T2 có tài sản chung, nợ chung hay không địa phương không nắm được. Anh Nguyễn Văn H có hộ khẩu tại địa phương, hiện nay anh đang đi làm ăn tại HN, địa chỉ cụ thể địa phương không nắm được. Anh H vẫn thường xuyên về thăm gia đình tại địa phương.

Ngày 12 tháng 8 năm 2020, Tòa án mở phiên tòa xét xử vụ án, chị T2 có mặt, anh H không đến phiên tòa, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa, phiên tòa được mở lại vào ngày 27/8/2020.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện T1, tỉnh Thái Bình phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử xử cho chị Đoàn Thị T2 được ly hôn anh Nguyễn Văn H. Về con chung, giao con chung cho chị T2 được trực tiếp nuôi dưỡng, anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị T2; anh H có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở; việc cấp dưỡng nuôi con chung, thay đổi người nuôi con chung được đặt ra giải quyết khi các bên đương sự có yêu cầu. Về tài sản chung, do đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả giải quyết tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn là chị Đoàn Thị T2 vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn là anh Nguyễn Văn H vắng mặt lần thứ hai không có lý do, vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị T2 và anh H.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

[2.1] Chị Đoàn Thị T2 và anh Nguyễn Văn H kết hôn trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, là hôn nhân hợp pháp. Căn cứ yêu cầu giải quyết ly hôn của chị T2 cung cấp phù hợp với các tài liệu chứng cứ Tòa án thu thập trong quá trình giải quyết vụ án nên xác định: Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống và làm việc tại tỉnh BD. Anh chị chung sống hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình không hợp, anh H ham chơi không chăm lo cho gia đình, vợ con, dẫn đến cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Năm 2018, anh H về Thái Bình sinh sống và làm việc. Tháng 01/2020, chị T2 về Thái Bình, sau đó lên ĐB một thời gian rồi lại về gia đình nhà ngoại tại thôn Năng Tĩnh, xã NC, huyện T1, tỉnh Thái Bình. Xác định tình cảm không còn, không thể quay về chung sống và đoàn tụ được nữa, chị T2 làm đơn xin ly hôn anh H.

[2.2] Chị T2 có đơn xin ly hôn, Tòa án đã ra thông báo thụ lý, thông báo đến tham gia phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải, anh H không đến Tòa án. Qua gia đình, anh H thể hiện mong muốn gia đình đoàn tụ, song nếu chị T2 kiên quyết ly hôn, anh H cũng đồng ý. Như vậy, có thể thấy tình cảm vợ chồng của chị T2và anh Hđã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xử cho chị Đoàn Thị T2 được ly hôn anh Nguyễn Văn H.

[3] Về con chung: Anh H và chị T2 có 01 con chung là Nguyễn Thị Huyền Tr, sinh ngày 28/3/2012. Hiện nay, cháu Tr đang ở với chị T2. Do anh H đi làm ăn xa, không có nhiều điều kiện để chăm sóc con nên cần giao cho chị T2 được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Thị Huyền Tr (cháu Tr có nguyện vọng được ở với mẹ), anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị T2. Anh H có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở; việc cấp dưỡng nuôi con chung, thay đổi người nuôi con chung được đặt ra giải quyết khi các bên đương sự có yêu cầu.

[4] Về tài sản chung: Do đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Đoàn Thị T2 phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí tòa án:

1. Về quan hệ hôn nhân:

Xử cho chị Đoàn Thị T2 được ly hôn anh Nguyễn Văn H.

2. Về con chung:

Giao cho chị Đoàn Thị T2 được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Thị Huyền Tr, sinh ngày 28/3/2012. Anh Nguyễn Văn H không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị T2. Anh H có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở; việc cấp dưỡng nuôi con chung, thay đổi người nuôi con chung được đặt ra giải quyết khi các bên đương sự có yêu cầu.

3. Về tài sản chung:

Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí:

Nguyên đơn là chị Đoàn Thị T2 phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm; đối trừ số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí chị T2 đã nộp theo Biên lai số 0009575 ngày 05/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T1, tỉnh Thái Bình. Chị Đoàn Thị T2 đã nộp đủ án phí.

5. Quyền kháng cáo:

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2020/HNGĐ-ST ngày 27/08/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình giữa chị T2 và anh H

Số hiệu:50/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về