Bản án 50/2020/HNGĐ-ST ngày 11/08/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH ĐẠI, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 50/2020/HNGĐ-ST NGÀY 11/08/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 11 tháng 8 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 188/2020/TLST – HNGĐ ngày 12 tháng 5 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 69/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 19 tháng 6 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên Tòa số 36/2020/QĐST- HNGĐ ngày 28 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Nguyn Thị Minh T, sinh năm 1990 (Có mặt).

Địa chỉ: ấp A, xã H, huyện D, tỉnh Bến Tre.

- Bị đơn: Nguyễn Thành L, sinh năm 1979 (Vắng mặt) Địa chỉ: ấp A, xã H, huyện D, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn xin ly hôn đề ngày 21/02/2020, bản tự khai ngày 28/5/2020 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Minh T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh L cưới nhau vào năm 2017 trên tinh thần tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tam Hiệp vào năm 2017. Thời gian đầu có hạnh phúc nhưng từ năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh L chỉ ăn chơi không lo làm ăn, không lo cho gia đình vợ con dẫn đến vợ chồng sống không hạnh phúc và đã ly thân từ năm 2019 đến nay, hiện mỗi người sống một nơi, anh về nhà mẹ ruột anh ở.

Nay chị xác định không còn tình cảm với anh L nên yêu cầu được ly hôn.

- Về nuôi con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Ánh D, sinh ngày 06/12/2018, đang sống với chị, khi ly hôn chị yêu cầu nuôi con chung và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Chị T khai không có.

- Về nợ chung: Chị T khai không có.

- Tại phiên Tòa: chị T vẫn giữ yêu cầu khởi kiện không thay đổi gì.

* Đối với anh Nguyễn Thành L là bị đơn, trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án, đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhưng anh đều vắng mặt, mặc dù anh vẫn còn sinh sống tại địa phương, nên không thu thập được lời khai của anh.

* Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre tham gia phiên Tòa phát biểu ý kiến:

- Về tuân theo pháp luật tố tụng:

Thẩm phán, Hội đồng xét xử, người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ tuân theo đúng quy định của pháp luật. Riêng bị đơn vắng mặt tại phiên Tòa là không thực hiện theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung:

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84, 119 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 để chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T đối với anh L. Về con chung: Đề nghị giao cháu Nguyễn Ánh D, sinh ngày 06/12/2018 cho chị T nuôi dưỡng. Ghi nhận chị T không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Không có, nên đề nghị Hội đồng xét xử không xét đến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên Tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng:

[1]. Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Nguyễn Thành L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để xét xử, nhưng anh vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Tòa án xét xử vắng mặt anh là phù hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung:

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh L cưới nhau vào năm 2017 trên tinh thần tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tam Hiệp vào năm 2017 theo đúng quy định của pháp luật, nên quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh L được công nhận hợp pháp.

Nay chị T yêu cầu ly hôn, anh L vắng mặt nên không có lời khai. Hội đồng xét xử xét thấy: Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, trong đó có biên bản xác minh tại chính quyền địa phương cũng như lời khai của chị T đều xác định được cuộc sống vợ chồng của anh chị đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh L ăn chơi không lo làm ăn để lo cho gia đình vợ con, dẫn đến vợ chồng sống không hạnh phúc và đã ly thân từ năm 2019 đến nay.

Hơn nữa, Toà án đã tiến hành mời chị T và anh L để hoà giải, nhằm cho các bên có cơ hội hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh L vẫn vắng mặt không lý do, cho thấy anh L đã không còn quan tâm đến cuộc hôn nhân này.

Qua đó, có cơ sở để Hội đồng xét xử xác định giữa chị T và anh L đã không còn quan tâm, chăm sóc đến cuộc sống của nhau, cùng nhau chia sẻ thực hiện các công việc trong gia đình. Điều đó, chứng tỏ hôn nhân của anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu ly hôn của chị T là có căn cứ và phù hợp theo quy định tại Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3]. Về nuôi con chung: Trong quá trình sống chung giữa chị T và anh L có 01 con chung tên Nguyễn Ánh D, sinh ngày 06/12/2018. Khi ly hôn chị T yêu cầu nuôi con.

Hội đồng xét xử xét thấy: Xuất phát từ lợi ích mọi mặt của cháu Dương, xét thấy từ trước đến nay cháu Dương đều sống với chị T, việc chị nuôi con chung vẫn phát triển bình thường, nên để nhằm ổn định về tinh thần của con chung anh và chị cần để cháu Dương cho chị T nuôi dưỡng cũng là phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu nuôi con chung của chị T.

[4]. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị T nuôi con chung nhưng không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con, nên được Hội đồng xét xử ghi nhận và không xét đến.

[5]. Về tài sản chung: Chị T khai không có, nên Hội đồng xét xử không xét đến.

[6]. Về nợ chung: Chị T khai không có, nên Hội đồng xét xử không xét đến.

[7]. Đối với lời trình bày của Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bình Đại về quan điểm giải quyết vụ án: phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[8]. Về án phí hôn nhân sơ thẩm:

Căn cứ theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Chị Nguyễn Thị Minh T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84, 119 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Minh T đối với anh Nguyễn Thành L.

Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Minh T và anh Nguyễn Thành L.

Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Minh T và anh Nguyễn Thành L chấm dứt kể từ ngày bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Giao con chung Nguyễn Ánh D, sinh ngày 06/12/2018 cho chị Nguyễn Thị Minh T trực tiếp nuôi dưỡng.

2.2. Ghi nhận sự tự nguyện chị Nguyễn Thị Minh T nuôi con chung không yêu cầu anh Nguyễn Thành L cấp dưỡng nuôi con.

Anh Nguyễn Thành L không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Chị Nguyễn Thị Minh T trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở anh Nguyễn Thành L trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84, Điều 119 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và quyết định việc thay đổi yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Chị T khai không có, nên không xét đến.

4. Về nợ chung: Chị T khai không có, nên không xét đến.

5. Về án phí hôn nhân sơ thẩm:

Chị Nguyễn Thị Minh T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị T đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0010787 ngày 08 tháng 5 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre. Như vậy, chị Nguyễn Thị Minh T đã nộp đủ án phí.

Chị Nguyễn Thị Minh T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với anh Nguyễn Thành L vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2020/HNGĐ-ST ngày 11/08/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:50/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Đại - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về