TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN BIÊN, TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 50/2020/DS-ST NGÀY 30/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 30 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 163/2020/TLST–DS ngày 09 tháng 6 năm 2020 về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2020/QĐXXST–DS ngày 31 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1964; vắng mặt. Cư trú tại: Tổ 10, ấp T, xã B, huyện B, tỉnh N.
Bị đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1974; vắng mặt.
Ông Đỗ Văn L, sinh năm 1959; vắng mặt. Cùng cư trú tại: Tổ 11, ấp T, xã B, huyện B, tỉnh N.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 01 tháng 6 năm 2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn – bà Nguyễn Thị L trình bày:
Do quen biết nên bà có hai lần cho vợ chồng ông Đỗ Văn L, bà Nguyễn Thị T vay tiền, cụ thể:
- Lần thứ nhất: Ngày 13/11/2019 dương lịch (nhằm ngày 17/10/2019 âm lịch), ông L và bà T vay số tiền 200.000.000 đồng. Ông L, bà T có viết, ký và lăn tay xác nhận vào giấy biên nhận tiền; không thỏa thuận lãi suất, có thỏa thuận thời gian trả tiền là trả dần mỗi tháng 20.000.000 đồng. Ông L và bà T có trả cho bà được 03 tháng tiền gốc với số tiền 60.000.000 đồng (từ tháng 12/2019 đến tháng 02/2020 âm lịch), còn nợ lại 140.000.000 đồng tiền gốc, tiền lãi không trả;
- Lần thứ hai: Ngày 14/01/2020 dương lịch (nhằm ngày 20/12/2019 âm lịch), ông L và bà T vay số tiền 140.000.000 đồng. Ông L có viết, ký và lăn tay xác nhận vào giấy biên nhận tiền, bà T có điện thoại cho bà về việc ông L vay số tiền này và do bận việc nên bà T không trực tiếp đến nhà bà để ký nhận nợ. Các bên không thỏa thuận lãi suất, có thỏa thuận thời gian trả tiền là trả dần mỗi tháng 10.000.000 đồng từ ngày 20/01/2020 âm lịch nhưng đến nay chưa trả khoản tiền gốc và tiền lãi nào.
Mục đích ông L, bà T vay tiền để mua đất nhưng cụ thể mua đất của ai, ở đâu thì bà không rõ, cũng không thế chấp tài sản gì cho bà. Nguồn gốc số tiền bà cho bà T, ông L vay là tiền do bà tích lũy có được.
Tổng cộng số tiền bà T, ông L còn nợ bà hiện nay là 280.000.000 đồng. Nay bà yêu cầu yêu cầu ông, bà T có nghĩa vụ liên đới hoàn trả cho bà số tiền nợ vgốc 280.000.000 đồng và yêu cầu tính tiền lãi theo mức lãi suất 0,83 %/tháng của từng lần vay cho đến khi giải quyết xong vụ kiện.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bị đơn - ông Đỗ Văn L, bà Nguyễn Thị T nhưng ông L, bà T cố tình vắng mặt nên không thể tiến hành làm việc lấy lời khai, hòa giải theo quy định pháp luật tố tụng dân sự.
Tại phiên tòa:
Nguyên đơn bà Nguyễn Thị L: Có đơn đề nghị vắng mặt.
Bị đơn ông Đỗ Văn L, bà Nguyễn Thị T: Vắng mặt không có lý do.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh phát biểu ý kiến:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Qua công tác kiểm sát xét thấy từ khi thụ lý vụ án, cấp, tống đạt các văn bản tố tụng cho các đương sự, chuyển hồ sơ vụ án, quá trình thu thập chứng cứ, lấy lời khai, hòa giải, thời hạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Thư ký Tòa án, các Hội thẩm nhân dân và người tham gia tố tụng (nguyên đơn bà Nguyễn Thị L) đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Riêng bị đơn ông Đỗ Văn L và bà Nguyễn Thị T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do.
- Về nội dung vụ án: Căn cứ quy định tại các Điều 463, 466 và 468 Bộ luật Dân sự đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc ông Đỗ Văn L, bà Nguyễn Thị T có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị L số tiền nợ gốc và tiền lãi theo quy định pháp luật.
+ Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông L, bà T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, Tòa án nhân dân huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh nhận định:
[1] Về tố tụng: Bà Nguyễn Thị L là nguyên đơn trong vụ án vắng mặt và có đơn đề nghị vắng mặt; ông Đỗ Văn L, bà Nguyễn Thị T là bị đơn trong vụ án đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bà L, ông L, bà T.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về tiền nợ gốc: Xét yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị L yêu cầu ông Đỗ Văn L, bà Nguyễn Thị T hoàn trả số tiền nợ vay gốc 280.000.000 đồng, thấy rằng: Bà Nguyễn Thị L cung cấp 02 (hai) bản gốc giấy “Biên nhận tiền” gồm: Ngày 13/11/2019 dương lịch vay 200.000.000 đồng, ngày 20/12/2019 âm lịch vay 140.000.000 đồng, có chữ ký người mượn là ông Đỗ Văn L, bà Nguyễn Thị T, tổng số tiền là 340.000.000 đồng. Bà L thừa nhận trong thời gian vay tiền, ông L và bà T đã trả cho bà L số tiền gốc 60.000.000 đồng, còn nợ lại 280.000.000 đồng.
Quá trình giải quyết vụ án, ông L và bà T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng liên quan đến yêu cầu khởi kiện của bà L nhưng vắng mặt, không có ý kiến phản đối về các chứng cứ do bà L cung cấp. Qua xác minh, thu thập chứng cứ thể hiện sau khi vay tiền của bà L, khoảng tháng 02/2020 ông L, bà T đã bỏ địa phương đi, không xác định được địa chỉ nơi cư trú hiện nay, việc ông L, bà T thay đổi nơi cư trú gắn với việc thực hiện quyền và nghĩa vụ mà không thông báo cho bà L biết về nơi cư trú mới, thể hiện việc ông L, bà T cố tình giấu địa chỉ và vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo quy định tại các Điều 463, 466 Bộ luật Dân sự. Căn cứ khoản 2, khoản 4 Điều 91 và khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định“Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ...thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc”.
Căn cứ 02 (hai) giấy biên nhận mượn tiền do bà L cung cấp nêu trên thể hiện nội dung “...Tôi tên Nguyễn Thị T sanh 1974 chồng Đỗ Văn L sanh 1959 ngụ: Tổ 13, ấp T, B, TB, TN có mượn của chị nguyễn Thị L một số tiền là ..., bằng chữ ...”, Hội đồng xét xử công nhận hợp đồng vay tài sản giữa ông Đỗ Văn L, bà Nguyễn Thị T với bà Nguyễn Thị L là có thật và có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà L, buộc ông L và bà T có nghĩa vụ hoàn trả cho bà L số tiền vay gốc 280.000.000 đồng.
[2.2] Về tiền lãi: Căn cứ 02 giấy “Biên nhận tiền” do bà L cung cấp thể hiện khi vay tiền các bên không thỏa thuận lãi suất, nhưng có thỏa thuận thời gian trả tiền của hai khoản vay là trả dần hàng tháng. Do đó, Hội đồng xét xử xác định hợp đồng vay tài sản giữa bà L và ông L, bà T là hợp đồng vay có kỳ hạn và không có lãi, do bị đơn vắng mặt không có ý kiến về lãi suất nên đây là trường hợp có tranh chấp về lãi suất. Căn cứ khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự, lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự là 10%/năm, tương đương 0,83%/tháng. Xét thấy, ông L và bà T vi phạm thời hạn trả tiền nợ gốc nên bà L khởi kiện yêu cầu trả tiền gốc và tiền lãi theo quy định pháp luật với mức lãi suất 0,83%/tháng từ ngày ký các giấy mượn tiền cho đến khi giải quyết xong vụ án là có cơ sở chấp nhận. Cụ thể tiền lãi được tính như sau:
- Khoản vay thứ nhất: Ngày 13/11/2019 dương lịch (nhằm ngày 17/10/2019 âm lịch) đến ngày 30/9/2020, số tiền gốc 140.000.000 đồng là: 10 tháng 17 ngày x 0,83%/tháng x 140.000.000 đồng = 12.278.466 đồng (làm tròn 12.278.000 đồng) - Khoản vay thứ hai: Ngày 14/01/2020 dương lịch (nhằm ngày 20/12/2019 âm lịch), đến ngày 30/9/2020 là: 08 tháng 16 ngày x 0,83%/tháng x 140.000.000 đồng = 9.915.733 đồng (làm tròn 9.915.000 đồng).
Tổng cộng 02 khoản tiền lãi là 22.193.000 đồng [2.3] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị L, buộc bị đơn ông Đỗ Văn L và bà Nguyễn Thị T có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Nguyễn Thị L số tiền nợ gốc 280.000.000 đồng và tiền lãi 22.193.000 đồng, tổng cộng 302.193.000 đồng.
[3] Về án phí: Ông Đỗ Văn L, bà Nguyễn Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 302.193.000 đồng x 5% = 15.109.650 đồng (làm tròn 15.110.000 đồng) theo Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 463, 466 và 468 Bộ luật Dân sự; Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị L đối với ông Đỗ Văn L và bà Nguyễn Thị T về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.
Buộc ông Đỗ Văn L và bà Nguyễn Thị T có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Nguyễn Thị L số tiền 302.193.000 (Ba trăm lẻ hai triệu một trăm chín mươi ba nghìn) đồng.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án (ông Đỗ Văn L và bà Nguyễn Thị T) còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 (0,83%/tháng).
2. Án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Đỗ Văn L và bà Nguyễn Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 15.110.000 (mười lăm triệu một trăm mười nghìn) đồng.
Bà Nguyễn Thị L không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị L số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 7.000.000 (bảy triệu) đồng theo biên lai thu số 0004163 ngày 09/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh.
3. Quyền kháng cáo: Bà Nguyễn Thị L, ông Đỗ Văn L và bà Nguyễn Thị T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 50/2020/DS-ST ngày 30/09/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Số hiệu: | 50/2020/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tân Biên - Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 30/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về