Bản án 50/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN YÊN, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 50/2019/HS-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 52/2019/TLST-HS ngày 08 tháng 11 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2019, đối với bị cáo:

Vũ Mạnh T, sinh ngày 23 tháng 6 năm 1988 tại xã MĐ, huyện VY, tỉnh Yên Bái. Nơi cư trú: Thôn C, xã MĐ, huyện VY, tỉnh Yên Bái; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Vũ Xuân T và bà Lương Thị H; vợ, con: Chưa có; tiền sự: Không; tiền án: có 2 tiền án:

+ Ngày 26-4-2017, bị Tòa án nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái, xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 27/2017/HSST;

+ Ngày 13-11-2018, bị Tòa án nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái, xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 38/2018/HSST;

Bị cáo bị bắt ngày 09 tháng 9 năm 2019, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ, Công an huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái; có mặt.

Bị hại: Anh Chu Văn Đ, sinh năm 1989

Địa chỉ: Thôn K, xã QM, huyện VY, tỉnh Yên Bái; có mặt

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Bà Hà Thị L, sinh năm 1963

Địa chỉ: Thôn T, xã ĐC, huyện VY, tỉnh Yên Bái; có mặt

* Những người tham gia tố tụng khác:

- Người làm chứng:

+ Anh Vũ Ngọc Th, sinh năm 1984

Địa chỉ: Thôn C, xã MĐ, huyện VY, tỉnh Yên Bái; vắng mặt

+ Anh Lý Văn T1, sinh năm 1991

Địa chỉ: Thôn K, xã QM, huyện VY, tỉnh Yên Bái; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 29 tháng 8 năm 2019, Vũ Mạnh T đi xe mô tô nhãn hiệu hiệu HONDA, loại xe WAVE RSX, màu sơn đỏ đen, biển kiểm soát: 21E1-183.06 của anh trai là Vũ Ngọc Th ở cùng nhà đi làm cỏ sắn. Làm cỏ được khoảng 10 phút thì T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản lấy tiền tiêu sài, T điều khiển xe đi vào xã QM, huyện VY. Khi đến nhà anh Chu Văn Đ thuộc thôn K, xã QM, thấy cửa khép, xung quanh không có người, T dựng xe ở đường và đi bộ vào nhà anh Đ, mở cửa quan sát thấy trong nhà không có ai, T đi vào trong nhà thì nhìn thấy ở gian bếp có một số bao tải thóc xếp ở gần cửa. T đã bê một bao thóc đặt lên giá để hàng ở giữa xe, rồi quay lại bê tiếp một bao thóc nữa đặt lên yên xe chằng buộc lại, sau đó điều khiển xe chở hai bao thóc đi ra xã ĐC, huyện VY tìm nơi tiêu thụ. T đến cơ sở xay xát và thu mua thóc của gia đình bà Hà Thị L, ở thôn T, xã ĐC, hỏi bà L có mua thóc không, bà L xem thóc và trả lời có mua. Bà L cùng T cân 2 bao thóc được tổng trọng lượng là 83 kg (trong đó một bao thóc loại Bắc Hương 9 nặng 44kg; một bao thóc loại Thiên Ưu 8 nặng 39 kg) bà L trả cho T số tiền 615.000 đồng. Bán thóc xong T tiếp tục quay lại nhà anh Đ lấy thêm hai bao nữa, trong lúc T đang chằng buộc bao thóc trên yên xe thì anh Lý Văn T1, trú tại thôn K xã QM đến nhà anh Đ chơi, thấy anh T1 đến T vội vàng quay xe để đi thì làm rơi bao thóc ở giá để hàng giữa xe xuống sân. T nói với anh T1: “Chị chủ nhà vừa đi vào trong không có ai ở nhà, chở hai bao khó quá, thôi chở một bao đi trước, tý quay lại trở một bao sau” rồi điều khiển xe trở bao thóc ra nhà bà L để bán nhưng lúc này bà L đi vắng nên T để bao thóc ở sân nhà bà L rồi đi xe lên xã A, huyện VY. Sau khi T trở thóc đi, do nghi ngờ T trộm thóc nhà anh Đ nên anh T1 đã gọi anh Đ về kiểm tra thì phát hiện bị mất ba bao thóc, còn một bao T bỏ lại ở sân. Anh Đ và anh T1 đi tìm, khi đến nhà bà L thấy ba bao thóc giống của gia đình mình, anh Đ vào hỏi thì bà L cho biết mua của một thanh niên không quen biết. Đúng lúc này T quay lại để bán bao thóc, nhìn thấy anh T1 và anh Đ, T liền phóng xe bỏ chạy.

Ngày 09-9-2019, Vũ Mạnh T ra đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 21/ĐGTS-HĐĐG, ngày 18-9-2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái kết luận: Giá trị của tài sản trưng cầu định giá (tại thời điểm ngày 29-8-2019) có giá trị là: 1.345.000 đồng (Một triệu ba trăm bốn mươi lăm nghìn đồng);

* Vật chứng của vụ án đã tạm giữ và xử lý:

- Cơ quan điều tra đã trả 04 tải thóc cho chủ sở hữu là anh Chu Văn Đ;

- Chiếc xe mô tô nhãn hiệu hiệu HONDA, loại xe WAVE RSX, biển kiểm soát: 21E1-183.06 đã trả lại cho anh Vũ Ngọc Th.

* Trách nhiệm dân sự:

+ Anh Chu Văn Đ đã nhận lại toàn bộ tài sản và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm.

+ Bà Hà Thị L yêu cầu Vũ Mạnh T phải hoàn lại số tiền 615.000 đồng.

Cáo trạng số 53/CT-VKS-VY ngày 08 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện VY, tỉnh Yên Bái truy tố: Vũ Mạnh T về tội “ Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

* Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vũ Mạnh T phạm tội " Trộm cắp tài sản".

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Vũ Mạnh T từ 12 tháng đến 18 tháng tù;

3. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự, các Điều 584, 585, 586 và Điều 589 của Bộ luật Dân sự.

Buộc bị cáo Vũ Mạnh T phải hoàn lại cho bà Hà Thị L số tiền 615.000 đồng.

4. Về án phí: Tuyên theo quy định của pháp luật.

* Bị cáo Vũ Mạnh T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, không có ý kiến tranh luận gì với Kiểm sát viên; đề nghị Hội đồng xét xử giảm n hẹ hình phạt.

Người bị hại anh Chu Văn Đ trình bày anh đã nhận lại toàn bộ tài sản do T trộm cắp và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Hà Thị L yêu cầu bị cáo phải hoàn lại số tiền 615.000 đồng.

Người làm chứng Lý Văn T1 trình bày những tình tiết mình biết đúng như lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa sơ thẩm, người làm chứng anh Vũ Ngọc Th vắng mặt. Xét thấy người làm chứng vắng mặt nhưng đã có đầy đủ lời khai trong hồ sơ vụ án, không gây trở ngại cho việc xét xử. Vì vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại Điều 293 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

[3] Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong hồ sơ vụ án và xem xét tại phiên tòa. Như vậy đã có đủ cơ sở xác định: Do cần tiền chi tiêu cá nhân và lợi dụng sự sơ hở, chủ quan, mất cảnh giác của gia đình anh Đ. Khoảng 07 giờ 30 phút, ngày 29-8-2019, Vũ Mạnh T đã vào nhà anh Chu Văn Đ ở thôn K, xã QM, huyện VY, tỉnh Yên Bái trộm cắp 04 bao tải thóc có tổng trị giá 1.345.000 đồng. Ngày 13-11-2018, Vũ Mạnh T bị Tòa án nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái xử phạt 09 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản” (bản án số 38/2018/HS-ST. Bị cáo đã chấp hành xong bản án hình sự nêu trên. Tuy nhiên tính đến ngày 29-8-2019, bị cáo chưa được xóa án tích nên hành vi trộm cắp mà Vũ Mạnh T thực hiện đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết định khung “Đã bị kết án về tội này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện VY, tỉnh Yên Bái đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[4] Xét tính chất, mức độ phạm tội, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm quyền sở hữu, quản lý hợp pháp tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội tại địa phương. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm bị cáo trước pháp luật mới có tác dụng giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[5] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy:

Bị cáo Vũ Mạnh T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Bị cáo Vũ Mạnh T trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản trộm cắp đã được thu hồi trả lại cho chủ sở hữu nên được coi là phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; bị cáo đã đầu thú; bị cáo có bố đẻ là người có công được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhì, Huân chương chiến sỹ vẻ vang hạng Ba nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, h khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đây là những tình tiết giảm nhẹ Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu. Ngày 26-4-2017, bị Tòa án nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 27/2017/HSST) và ngày 13-11-2018, bị Tòa án nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 38/2018/HSST). Bị cáo không lấy đó làm bài học, vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Thể hiện ý thức tu dưỡng, rèn luyện của bản thân bị cáo là rất kém.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử thấy rằng: Cần áp dụng với bị cáo một mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và nhân thân bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho xã hội và răn đe phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo không có việc làm, không có thu nhập ổn định, không có tài sản. Do đó, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về các vấn đề khác:

Đối với bà Hà Thị L là người đã có hành vi mua tài sản do bị cáo T trộm cắp nhưng bà L không biết đó là tài sản do T phạm tội mà có nên cơ quan Điều tra không đề cập xử lý là phù hợp.

[8] Về trách nhiệm dân sự:

Người bị hại là anh Chu Văn Đ đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo phải bối thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xét.

Bà Hà Thị L yêu cầu bị cáo phải hoàn lại số tiền 615.000 đồng. Hội đồng xét xử thấy, do bà L không biết tài sản T đem bán cho bà là do phạm tội mà có, nên yêu cầu này của bà L là có căn cứ. Buộc bị cáo phải hoàn trả bà L số tiền này.

[9] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm.

[10] Những nội dung đề nghị của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái tại phiên toà phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử được chấp nhận.

[11] Bị cáo; bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vũ Mạnh T phạm tội "Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt Vũ Mạnh T 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09 tháng 9 năm 2019.

3. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ các Điều 584, 585, 586 và Điều 589 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Buộc bị cáo Vũ Mạnh T hoàn trả cho bà Hà Thị L số tiền 615.000 (sáu trăm mười lăm nghìn) đồng. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Vũ Mạnh T phải chịu là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án (phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình) trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:50/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Yên - Yên Bái
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về