Bản án 50/2019/HS-ST ngày 15/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC LINH, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 50/2019/HS-ST NGÀY 15/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 11 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 51/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Đặng Ngọc T, sinh năm 2000 tại Bình Thuận; Nơi cư trú: Khu phố 6, thị trấn Đức Tài, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: Nông; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Ngọc C2 (đã chết) và bà Trần Thị L, sinh năm 1971, trú tại tổ 5, khu phố 6, thị trấn Đức Tài, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận; gia đình có 03 anh em, T là con thứ hai trong gia đình; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị báo hiện đang được tại ngoại theo lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 58/LCCT ngày 07/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đức Linh. Có mặt tại phiên tòa.

- Những người làm chứng:

+ Anh Đặng Ngọc C, sinh năm 1997. Nơi cư trú: Tổ 5, khu phố 6, thị trấn Đức Tài, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận. Vắng mặt

+ Bà Trần Thị L, sinh năm 1971. Nơi cư trú: Tổ 5, khu phố 6, thị trấn Đức Tài, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận. Vắng mặt

+ Bà Lê Ngọc C1, sinh năm 1972. Nơi cư trú: Tổ 5, khu phố 6, thị trấn Đức Tài, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận. Có mặt

+ Ông Bùi S, sinh năm 1968. Nơi cư trú: Tổ 5, khu phố 6, thị trấn Đức Tài, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 01/7/2019 tại nhà bà Trần Thị L thuộc khu phố 6, thị trấn Đức Tài,huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận; Đặng Ngọc T và Trương Thanh S, sinh năm 1994 trú tại thôn 8, xã Đức Tín cùng góp tiền để mua ma túy về sử dụng, sau đó Trương Thanh S ra trước cổng nhà bà Trần Thị L để gặp 03 thanh niên (không rõ nhân thân lai lịch) và đem vào 04 gói ny lon bên trong có chứa chất bột màu trắng để trên bàn trong phòng ngủ của T. T và S lấy ra 02 gói ny lon có chứa chất bột màu trắng bỏ vào dụng cụ sử dụng ma túy để sử dụng. Đến khoảng 00 giờ 00 phút ngày 02/7/2019, sau khi nhận được 01 cuộc gọi từ mạng xã hội Zalo, S đi ra trước cổng nhà bà Trần Thị L để đưa cho 02 thanh niên (không rõ nhân thân lai lịch) 01 gói nylon có chứa chất bột màu trắng và đi vào phòng của T để ngủ lại. Đến khoảng 07 giờ ngày 02/7/2019 T thức dậy lấy 01 gói ny lon có chứa chất bột màu trắng bỏ vào 01 bịch ny lon, sau đó bỏ vào 01 hộp đựng mắt kính màu đen cùng 01 lưỡi dao lam, 01 đoạn ống hút nhựa màu xanh để trên bàn trong phòng ngủ của T.

Vào khoảng 7 giờ 50 phút ngày 02/7/2019 Công an thị trấn Đức Tài đến nhà bà Trần Thị L để gặp Đặng Ngọc C, sinh năm 1997, là anh trai của Đặng Ngọc T. Khi lực lượng công an vừa đến nhà, vì sợ bị phát hiện nên S và T bỏ chạy ra sau vườn nhà của bà L để bỏ trốn. Đến ngày 14/7/2019 Đặng Ngọc T đến cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Đức Linh trình diện và khai nhận toàn bộ sự việc.

Vật chứng thu giữ được tại hiện trường gồm: 01 bịch ny lon bên trong có 01 bịch ny lon nhỏ được hàn kín có chứa chất bột màu trắng, 01 lưỡi dao lam, 01 đoạn ống hút nhựa màu xanh, 01 chiếc hộp dùng để đựng mắt kính bằng vải màu đen có khóa kéo, 01 bộ dụng cụ để sử dụng ma túy đá bằng nhựa.

Tại bản kết luận giám định số: 600/KLGĐ-PC09 ngày 09/7/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận xác định:

- Mẫu M gửi giám định có khối lượng 0.111 gam là Methamphetamine.

Tại cáo trạng số 53/CT-VKS-HS ngày 25/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Linh truy tố Đặng Ngọc T ra trước Tòa án nhân dân huyện Đức Linh để xét xử về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo điểm c, khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Linh giữ nguyên cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo từ 15 – 18 tháng tù. Đề nghị tịch thu tiêu hủy các vật chứng đang thu giữ gồm: 0.0646 gam Methamphetamin còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 600 có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận; 01 hộp đựng mắt kính bằng vải màu đen có khóa kéo, 01 lưỡi dao lam, 01 đoạn ống hút nhựa màu xanh, 01 bịch ny lon, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

Bị cáo Đặng Ngọc T thừa nhận hành vi phạm tội của mình và trình bày lời sau cùng như sau: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình, hòa nhập cộng đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ đã thu thập như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào tối ngày 01/7/2019, tại nhà bà Trần Thị L thuộc khu phố 6, thị trấn Đức Tài, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận, Đặng Ngọc T có hành vi cất giấu trái phép 01 gói ma túy có trọng lượng là 0.111 gam. Đến khoảng 7 giờ 50 phút ngày 02/7/2019 thì bị Công an thị trấn Đức Tài phát hiện và lập biên bản ghi nhận sự việc.

[2] Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, bản thân bị cáo nhận thức được việc cất giấu ma túy để sử dụng là hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên vì để thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân mà bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, không chỉ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, trí lực con người, mà từ ma túy đã làm gia tăng tệ nạn xã hội và là một trong những nguyên nhân lan truyền HIV/AIDS, là hiểm họa đối với gia đình và xã hội. Vì vậy cần phải có mức án nghiêm minh, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo mới đảm bảo tính răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

Tuy nhiên trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo, sau khi bỏ trốn bị cáo đã tự giác đến Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Đức Linh để trình diện. Vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo được quy định tại tiết 1 điểm s khoản 1 Điều 51 và tình tiết đầu thú được quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015.

[3] Quá trình xác minh, xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định và không có tài sản riêng do đó không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo là phù hợp.

[4] Đối tượng Trương Thanh S hiện không có mặt tại địa phương và không biết ở đâu nên cần tiếp tục điều tra làm rõ để có căn cứ xử lý sau.

[5] Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Cần tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định và các vật dụng được bị cáo dùng vào việc sử dụng, cất giấu ma túy gồm: 01 hộp đựng mắt kính bằng vải màu đen có khóa kéo, 01 lưỡi dao lam, 01 đoạn ống hút nhựa màu xanh, 01 bịch ny lon, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy theo đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là đúng pháp luật.

[6] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đức Linh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Linh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đặng Ngọc T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm a khoản 1 Điều 47; tiết 1 điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1/ Xử phạt bị cáo Đặng Ngọc T 15 (mười lăm) tháng tù giam. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo thi hành án.

2/ Về vật chứng thu giữ:

- Tuyên tịch thu và tiêu hủy:

+ 0.0646 gam Methamphetamine còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 600 có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận;

+ 01 hộp đựng mắt kính bằng vải màu đen có khóa kéo, 01 lưỡi dao lam, 01 đoạn ống hút nhựa màu xanh, 01 bịch ny lon, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

(Các vật chứng nêu trên đang được lưu giữ tại Tòa án nhân dân huyện Đức Linh).

3/ Về án phí: Bị cáo Đặng Ngọc T phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4/ Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án ngày 15/11/2019, để Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

316
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2019/HS-ST ngày 15/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:50/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Linh - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về