Bản án 49/2021/HS-ST ngày 19/04/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 49/2021/HS-ST NGÀY 19/04/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 04 năm 2021, tại Phòng xử án Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 216/2020/HSST ngày 29/12/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 44/2021/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo:

Phạm Thế U, tên gọi khác: /; giới tính: Nam; sinh năm 1985, tại tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 97/5B, ấp T, xã H, huyện M, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: 97/5B, ấp T, xã H, huyện M, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn:

09/12; nghề nghiệp: Tài xế; họ và tên cha: Phạm V (đã chết), họ và tên mẹ: Trần TV; có vợ đã ly hôn và có 02 người con: Lớn sinh năm 2007, nhỏ sinh 2009; Tiền sự: Không; Tiền án: Bản án số 200/2017/HSST ngày 20/12/2017 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; nhân thân: Quyết định số 0004299/QĐ-XPHC ngày 14/02/2007 của Công an huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 1.000.000 đồng về hành vi “đánh bạc”, chấp hành xong ngày 05/3/2007. Bản án số 277/2009/HSST ngày 12/11/2009, Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 18 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/9/2020 đến ngày 11/12/2020 thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- 1 - Bị hại: Ông Hán Quang T, sinh năm 1981; địa chỉ: Số A1 Lầu 1, chung cư M, số 259 đường L, phường Q, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi ở: E11.05 chung cư S, phường P, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Nguyễn Đức L; địa chỉ: Số 144/3 đường P, phường N, Quận M, TP Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 17/9/2020, Phạm Thế U điều khiển xe máy hiệu Exciter màu xám đen, biển số 59T1-249.16 đi trên nhiều tuyến đường trong khu vực P, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh tìm tài sản trộm cắp. Khi đến cổng sau trường tiểu học S, đường C, phường P, Quận B; phát hiện xe ô tô hiệu Mazda CX5 màu xanh đen, biển số 51G-970.71 của anh Hán Quang T đang đậu ở lề đường, đối diện cổng trường, không có người trông coi. Quan sát thấy không có ai, U đậu xe máy gần đó, đi bộ đến xe ô tô, dùng dụng cụ thoát hiểm xe ô tô chuẩn bị sẵn, đập bể kính sau bên phải xe ô tô, chồm người vào, lấy trộm 01 (một) balô màu đen bên trong chứa 01 (một) laptop ở hàng ghế sau xe. Vừa lấy trộm xong, U bị Đội Cảnh sát hình sự Công an Quận 7 phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Tại cơ quan Công an, U khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản của mình và giao nộp lại số tài sản đã chiếm đoạt.

Vật chứng vụ án: 01 (một) máy tính xách tay (laptop) hiệu Lenovo X390, màu đen; 01 (một) ba lô màu đen nhãn hiệu ThinkPad; 02 (hai) dụng cụ thoát hiểm xe ô tô kiêm sạc USB hiệu Stinger màu đen, cán hình chữ nhật bằng nhựa, mũi bằng kim loại; 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu xanh; 01 (một) xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter, biển số 59T1-24916; 01 (một) ba lô màu đen hiệu Samsonite; 01 (một) móc áo bằng nhôm bị gập đôi; 01 (một) áo khoác bằng vải dù màu xanh; 01 (một) áo khoác bằng vải dù màu xám đen hiệu ROUTINE;

01 (một) áo thun nam sọc ngang trắng xám xanh hiệu K-N; 01 (một) áo mưa bằng vải dù màu xanh; 01 (một) đèn pin bằng kim loại màu bạc hiệu ShenquanQiBing; 01 (một) kềm bằng kim loại hiệu Jeep; 01 (một) găng tay bằng vải màu xám viền xanh ở cổ găng tay; 02 (hai) khẩu trang y tế màu xanh.

Theo Kết luận định giá tài sản số 366/KL-HĐĐGTTHS ngày 22/9/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân Quận 7 kết luận :

01 (một) Laptop hiệu Lenovo X390 màu đen, đã qua sử dụng, tại thời điểm bị bị chiếm đoạt có giá trị 18.600.000 đồng.

Theo kết luận định giá số 421/KL-HĐĐGTTHS ngày 06/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự Quận 7 xác định: kính phía sau, bên phải xe ô tô hiệu Mazda CX5, biển số 51G-97071 tại thời điểm bị xâm hại có giá trị 1.917.000 đồng.

Bản Cáo trạng số 05/CT-VKSQ7 ngày 29/12/2020 Viện kiểm sát Nhân dân Quận 7 đã truy tố bị cáo Phạm Thế U về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát Nhân dân Quận 7 vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố Phạm Thế U phạm tội “Trộm cắp tài sản”; áp dụng Khoản 1 Điều 173; các điểm h, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo từ 09 tháng đến 01 năm 03 tháng tù. Đối với kính phía sau, bên phải xe ô tô hiệu Mazda CX5, biển số 51G-97071 do U đập vỡ, căn cứ Bản kết luận định giá số: 421/KL-HĐĐGTTHS ngày 06/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự Quận 7 xác định: Tại thời điểm bị xâm hại có giá trị 1.917.000 đồng nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 7 không xử lý hình sự là có căn cứ. Đề nghị xử lý vật chứng theo quy định.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát Nhân dân Quận 7 đã truy tố, không tự bào chữa, không tranh luận và đã thể hiện sự ăn năn hối cải, đề nghị được giảm nhẹ hình phạt.

- Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa;

- Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 7, Điều tra viên, Viện kiểm sát Nhân dân Quận 7, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, các đương sự không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; căn cứ Bản Kết luận định giá số: 366/KL-HĐĐGTTHS ngày 22/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự Quận 7, có đủ cơ sở để kết luận: Bị cáo đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản là 01 (một) máy tính xách tay Lenovo X390 có giá trị tại thời điểm chiếm đoạt là 18.600.000 (mười tám triệu sáu trăm nghìn) đồng. Do đó, bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” thuộc trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Đối với kính phía sau, bên phải xe ô tô hiệu Mazda CX5, biển số 51G- 97071 do U đập vỡ, căn cứ Bản kết luận định giá số: 421/KL-HĐĐGTTHS ngày 06/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự Quận 7 xác định: Tại thời điểm bị xâm hại có giá trị 1.917.000 đồng nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 7 không xử lý hình sự là có căn cứ.

[4] Hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội, bị cáo nhận thức được trộm cắp tài sản là hành vi vi ph ạm pháp luật, nhưng vì tham lam, lười lao động nên cố ý đi lấy trộm tài sản của người khác đem bán lấy tiên tiêu xài cá nhân. Vì vậy cần phải xét xử nghiêm bị cáo, mới có tác dụng giáo dục, cải tạo riêng và ngăn ngừa chung trong xã hội.

[5] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo có nhân thân xấu. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; Tài sản bị chiếm đoạt thu hồi được, trả cho người bị hại. Người bị hại có đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, ngoài ra, bị cáo hiện đang chung sống các anh chị em bị ảnh hưởng chất độc màu da cam và nuôi hai con nhỏ. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng các Điểm h, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[6] Bị cáo Phạm Thế U có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích nên phạm tội lần này thuộc trường hợp “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung 2017.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản, quá trình điều tra không có yêu cầu gì, có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa nên không xét.

[8] Xử lý vật chứng:

+ 01 (một) máy tính xách tay (laptop) hiệu Lenovo X390, màu đen; 01 (một) ba lô màu đen nhãn hiệu ThinkPad, 01 (một) thẻ nhân viên ABB mang tên TUAN HAN QUANG, là các tài sản bị chiếm đoạt, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 7 đã trả lại cho chủ sở hữu là có căn cứ.

+ 02 (hai) dụng cụ thoát hiểm xe ô tô kiêm sạc USB hiệu Stinger màu đen cán hình chữ nhật bằng nhựa, mũi bằng kim loại, là công cụ U dùng để phá kính xe ô tô thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nên tịch thu tiêu hủy.

+ 01 (một) ba lô màu đen hiệu Samsonite; 01 (một) móc áo bằng nhôm bị gập đôi; 01 (một) áo khoác bằng vải dù màu xanh; 01 (một) áo khoác bằng vải dù màu xám đen hiệu ROUTINE; 01 (một) áo thun nam sọc ngang trắng xám xanh hiệu K-N; 01 (một) áo mưa bằng vải dù màu xanh; 01 (một) đèn pin bằng kim loại màu bạc hiệu ShenquanQiBing; 01 (một) kềm bằng kim loại hiệu Jeep;

01 (một) găng tay bằng vải màu xám viền xanh ở cổ găng tay; 02 (hai) khẩu trang y tế màu xanh, là công cụ U dùng để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nên tịch tiêu hủy.

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu xanh, số imei: 355774109436247 là tài sản của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội, nên trả lại cho bị cáo.

+ 01 (một) xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter, biển số 59T1-249.16, số khung: M-0201810; số máy: ME-0201810, là phương tiện U sử dụng để đi trộm cắp. U khai nhận mượn xe trên của người bạn tên Nam, không rõ nhân thân lai lịch. Qua xác minh: biển số 59T1-24916 do anh Nguyễn Đức L là chủ sở hữu. Anh L đã bán xe trên bằng giấy tờ tay cho một người không rõ nhân thân lai lịch vào năm 2012 với giá 5.000.000 đồng. Đối với số khung: RLCUG1010LY259247; số máy: G3D4E1030286, qua giám định số khung số máy không thay đổi, tuy nhiên, tiến hành xác minh, không xác định được chủ sở hữu của số khung, số máy trên. Cơ quan điều tra đã đăng tin thông báo tìm chủ sở hữu nhưng chưa có kết quả, nên tiếp tục thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 60 ngày để xác định chủ xe hợp pháp. Quá hạn thông báo sẽ giao cho Ủy ban nhân dân Quận 7 xử lý theo quy định về tài sản vắng chủ.

[9] Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phạm Thế U phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Căn cứ vào Khoản 1 Điều 173; các Điểm h, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt: Bị cáo Phạm Thế U 09 (chín) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành hình phạt tù nhưng được trừ đi thời hạn tạm giam từ ngày 17/9/2020 đến ngày 10/12/2020.

2. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy: 02 (hai) dụng cụ thoát hiểm xe ô tô kiêm sạc USB hiệu Stinger màu đen cán hình chữ nhật bằng nhựa, mũi bằng kim loại; 01 (một) ba lô màu đen hiệu Samsonite; 01 (một) móc áo bằng nhôm bị gập đôi; 01 (một) áo khoác bằng vải dù màu xanh; 01 (một) áo khoác bằng vải dù màu xám đen hiệu ROUTINE; 01 (một) áo thun nam sọc ngang trắng xám xanh hiệu K-N; 01 (một) áo mưa bằng vải dù màu xanh; 01 (một) đèn pin bằng kim loại màu bạc hiệu ShenquanQiBing; 01 (một) kềm bằng kim loại hiệu Jeep; 01 (một) găng tay bằng vải màu xám viền xanh ở cổ găng tay; 02 (hai) khẩu trang y tế màu xanh.

Trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu xanh, số imei: 355774109436247.

Tiếp tục thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 60 (sáu mươi) ngày để xác định chủ sở hữu hợp pháp xe gắn máy hiệu Yamaha Exciter, biển số 59T1-249.16, số khung: RLCUG1010LY259247, số máy: G3D4E1030286. Quá hạn thông báo không tìm ra chủ sở hữu hợp pháp sẽ giao cho Ủy ban Nhân dân Quận 7 xử lý theo quy định về tài sản vắng chủ.

(Theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 36 ngày 16/12/2020).

3. Về án phí: Căn cứ vào các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

4. Về quyền, nghĩa vụ thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm đến Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 49/2021/HS-ST ngày 19/04/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:49/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 7 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:19/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về