Bản án 49/2021/HS-PT ngày 24/02/2021 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 49/2021/HS-PT NGÀY 24/02/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 24 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 05/2021/TLPT-HS ngày 04 tháng 01 năm 2021 đối với các bị cáo Trần Thị Thu T, Nguyễn Thanh T, Nguyễn Hồng L.

Do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 42/2020/HS- ST ngày 18 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò.

- Bị cáo có kháng cáo:

1. Họ và tên: Trần Thị Thu T, sinh năm 1958; HKTT: Ấp A, xã Bình T, huyện V, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Tiến T (Chết) và bà Nhang Thị Đ (Chết); có chồng tên Trương Văn V, sinh năm 1954 và có 05 người con, con lớn nhất sinh năm 1978, con nhỏ nhất sinh năm 1986; tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ: Không; tạm giam: Không; cấm đi khỏi nơi cư trú ngày 28/8/2020, hiện bị cáo đang tại ngoại và có mặt tại phiên tòa (Có mặt).

2. Họ và tên: Nguyễn Thanh T, sinh năm 1966; HKTT: Ấp B, xã Y, huyện V, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn S (Chết) và bà Phạm Thị N (Chết); có vợ tên Trương Thị Kim B, sinh năm 1979; có 02 người con, con lớn nhất sinh năm 1996, con nhỏ nhất sinh năm 2005; tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ, tạm giam: Không; cấm đi khỏi nơi cư trú ngày 28/8/2020, hiện bị cáo đang tại ngoại và có mặt tại phiên tòa (Có mặt).

3. Họ và tên: Nguyễn Hồng L, sinh năm 1983; HKTT: Ấp A, xã Bình T, huyện V, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T (Chết) và bà Nguyễn Thị H (Chết); có chồng tên Mai Văn G, sinh năm 1982, con: Có 02 con, lớn sinh năm 2003, nhỏ nhất sinh năm 2005; tiền án; tiền sự: Không; tạm giữ, tạm giam: Không; cấm đi khỏi nơi cư trú ngày 28/8/2020, hiện bị cáo đang tại ngoại và có mặt tại phiên tòa. (Có mặt).

Người bào chữa cho các bị cáo Trần Thị Thu T, Nguyễn Thanh T, Nguyễn Hồng L: Luật sư Nguyễn Văn Vững, Văn phòng luật sư Chí Công thuộc Đoàn luật sư tỉnh Đồng Tháp. (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, bản án sơ thẩm và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bà Dương Thị H đứng tên sở hữu quyền sử dụng đất tại ấp H, xã T, huyện V, tỉnh Đồng Tháp, do hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên gia đình bà H thường xuyên đi làm thuê ở tỉnh D, ít khi ở nhà. Lợi dụng việc gia đình bà H thường vắng nhà nên các đối tượng thường hay tụ tập tại khu đất trống phía sau nhà để tổ chức đánh bạc được thua bằng tiền. Cụ thể, vào lúc 14 giờ ngày 21/5/2020, mặc dù không hứa hẹn từ trước và không ai rủ rê ai, nhưng do biết có tụ điểm đánh bài ăn thua bằng tiền tại địa điểm trên nên bị cáo Trần Thị Thu T, bị cáo Nguyễn Thanh T, bị cáo Nguyễn Hồng L, bị cáo Huỳnh Thị Cẩm H, bị cáo Cao Thị C, bị cáo Trần Văn H cùng một số đối tượng (Không rõ họ tên và địa chỉ) đến tham gia đánh bài ăn thua bằng tiền. Hình thức chơi bài cào ba lá, một người làm cái chia bài cho các tụ đặt tiền, ba lá bài tính điểm cao nhất là ba tây, thấp nhất là 10 điểm, những người chơi thay phiên nhau làm cái, tính thắng thua trực tiếp với tụ cái, mỗi tụ đặt cao nhất là 100.000 đồng, thấp nhất là 50.000 đồng, chiếu và bài không rõ ai cung cấp, không có người thu tiền xâu. Cả nhóm đánh bạc đến khoảng 14 giờ 20 phút cùng ngày, khi một người thanh niên (Không rõ họ tên và địa chỉ) làm cái đến ván thứ ba đang chia bài cho những người đặt tụ gồm: Bị cáo Cao Thị C và bị cáo Nguyễn Hồng L hùn đặt 01 tụ 100.000 đồng; bị cáo Trần Thị Thu T, bị cáo Nguyễn Thanh T, bị cáo Huỳnh Thị Cẩm H, bị cáo Trần Văn H mỗi người đặt 01 tụ 100.000 đồng và một số đối tượng khác đặt tụ nhưng không rõ số tiền bao nhiêu thì bị Công an xã T tiến hành kiểm tra bắt quả tang, người làm cái và một số đối tượng khác chạy thoát. Qua đó thu giữ: Trên chiếu bạc số tiền 5.900.000 đồng; 01 chiếc chiếu lát đã qua sử dụng; 01 bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng. Xung quanh chiếu bạc gồm: 06 (sáu) chiếc xe mô tô có biển kiểm soát gồm: 66V1-41.594, 65C1-034.83, 62N1-399.24, 67L8-2747, 66L2-9027, 66F2- 4858.

Ngoài ra còn thu giữ:

- Bị cáo Trần Văn H 1.700.000 đồng (Trong đó có tờ 500.000 đồng bị rách đôi) và 01 điện thoại Nokia 105 màu đen.

- Bị cáo Trần Thị Thu T 5.379.000 đồng.

- Bị cáo Nguyễn Hồng L 799.000 đồng.

- Bị cáo Cao Thị C 32.000 đồng, 01 điện thoại Nokia 110 màu đen.

- Bị cáo Nguyễn Thanh T 3.257.000 đồng, 01 điện thoại Nokia 105 màu đen.

- Bị cáo Huỳnh Thị Cẩm H 213.000 đồng; 01 điện thoại OPPO A9 màu đen.

Đối với xe mô tô biển số 62N1-399.24 do anh Huỳnh Bửu N, sinh năm 1984, ngụ khu phố 2, thị trấn L, huyện B, tỉnh L, đứng tên chủ sở hữu. Quá trình giải quyết vụ án Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho anh N.

Đối với các xe mô tô biển số 65C1-034.83, 67L8-2747, 66L2-9027, 66F2- 4858 quá trình điều tra không xác định được chủ sở hữu, không phải là xe của các bị cáo trong vụ án. Ngày 24/8/2020, Cơ quan điều tra đã chuyển các xe trên đến Công an huyện V để xử lý theo quy định pháp luật.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lấp Vò đã truy tố các bị cáo về tội “Đánh bạc” Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 42/2020/HS-ST ngày 18/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò đã xử:

1. Tuyên bố: Các bị cáo Trần Thị Thu T, bị cáo Nguyễn Thanh T, bị cáo Nguyễn Hồng L phạm tội “Đánh bạc”.

2. Xử phạt:

2.1. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; Điều 38; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự:

- Xử phạt: Bị cáo Trần Thị Thu T 08 (Tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày đi chấp hành hình phạt tù.

- Phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo Trần Thị Thu T số tiền 10.000.000 đồng để sung Ngân sách Nhà nước.

2.2. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; Điều 38; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự:

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thanh T 07 (Bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày đi chấp hành hình phạt tù.

2.3. Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 38; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự:

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hồng L 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày đi chấp hành hình phạt tù.

Ngoài ra,bản án sơ thẩm còn tuyên hình phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo đối với các bị cáo Huỳnh Thị Cẩm H, Cao Thị C, Trần Văn H, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 03 tháng 12 năm 2020, các bị cáo Trần Thị Thu T, Nguyễn Thanh T và Nguyễn Hồng L cùng có đơn kháng cáo với nội dung xin được hưởng án treo, đồng thời bị cáo Trần Thị Thu T có đơn xin giảm phần hình phạt bổ sung.

Tại phiên tòa các bị cáo Trần Thị Thu T, bị cáo Nguyễn Thanh T và bị cáo Nguyễn Hồng L vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin được hưởng án treo với lý do: Án sơ thẩm xử phạt tù đối với các bị cáo là quá nặng, bị cáo Trần Thị Thu T có chồng là người có công với cách mạng được tặng huy chương kháng chiến; bị cáo Nguyễn Thanh T có vợ bị bệnh tâm thần. Đồng thời bị cáo T và bị cáo T1 đã tự nguyện nộp phần hình phạt bổ sung số tiền 10.000.000 đồng theo quyết định của bản án sơ thẩm, bị cáo T rút lại yêu cầu kháng cáo xin xem xét lại phần phạt bổ sung.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát: Sau khi phân tích tính chất của vụ án và hành vi phạm tội của các bị cáo đại diện Viện kiểm sát cho rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất của vụ án, hành vi phạm tội của các bị cáo, mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt các bị cáo là phù hợp nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo xin được hưởng án treo của các bị cáo Trần Thị Thu T, bị cáo Nguyễn Thanh T và bị cáo Nguyễn Hồng L, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm về hình phạt. Đối với yêu cầu rút lại kháng cáo về phần phạt bổ sung của bị cáo Trần Thị Thu T, đây là sự tự nguyện không trái pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận sự tự nguyện này của bị cáo và đình chỉ xét xử phúc thẩm.

Luật sư Nguyễn Văn Vững bào chữa cho các bị cáo Trần Thị Thu T, Nguyễn Thanh T, Nguyễn Hồng L trình bày: Các bị cáo Trần Thị Thu T, Nguyễn Thanh T và Nguyễn Hồng L có nhiều tình tiết giảm nhẹ, các bị cáo đều có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, ngoài 2 tình tiết giảm nhẹ ở điểm i, s khoản 1 Điều 51 là phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải thì bị cáo T còn có tình tiết giảm nhẹ ở khoản 2 Điều 51 là bị cáo có chồng là ông Trương Văn V được nhà nước tặng thưởng huy chương kháng chiến hạng nhì; Bị cáo T1 có vợ bị bệnh tâm thầm; Bị cáo L có hoàn cảnh gia đình khó khăn. Đồng thời bị cáo T và bị cáo T1 đã tự nguyện nộp số tiền phạt bổ sung 10.000.000 đồng theo quyết định của bản án sơ thẩm. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo, cho các bị cáo Trần Thị Thu T, Nguyễn Thanh T và Nguyễn Hồng L được hưởng án treo.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời bào chữa của luật sư, lời khai của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời nhận tội của các bị cáo Trần Thị Thu T, Nguyễn Thanh T và Nguyễn Hồng L tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như: lời khai của các bị cáo khác không kháng cáo, biên bản phạm tội quả tang cùng tang vật của vụ án. Đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 14 giờ ngày 21/5/2020, tổ công tác Công an xã V phát hiện và bắt quả tang các bị cáo Trần Thị Thu T, bị cáo Nguyễn Thanh T, bị cáo Nguyễn Hồng L, bị cáo Huỳnh Thị Cẩm H, bị cáo Cao Thị C, bị cáo Trần Văn H cùng một số đối tượng khác đã có hành vi đánh bạc ăn thua bằng tiền với hình thức chơi bài cào 3 lá. Tổng số tiền đánh bạc là 12.584.000 đồng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã quy kết các bị cáo Trần Thị Thu T, bị cáo Nguyễn Thanh T, bị cáo Nguyễn Hồng L, bị cáo Huỳnh Thị Cẩm H, bị cáo Cao Thị C, bị cáo Trần Văn H phạm tội “Đánh bạc” là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo Huỳnh Thị Cẩm H, bị cáo Cao Thị C và bị cáo Trần Văn H không kháng cáo.

[2] Xét kháng cáo xin hưởng án treo của các bị cáo Trần Thị Thu T, bị cáo Nguyễn Thanh T và bị cáo Nguyễn Hồng L, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng: Hành vi đánh bạc của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trật tự công cộng và là nguyên nhân làm phát sinh nhiều tội phạm khác, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương. Trong tình hình hiện nay, việc đánh bạc ngày càng gia tăng và phổ biến, để răn đe, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội cần phải xử phạt nghiêm khắc. Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như: Các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bị cáo T có chồng là người có công cách mạng được tặng thưởng huy chương kháng chiến. Chỉ xử phạt bị cáo Trần Thị Thu T 08 tháng tù, bị cáo Nguyễn Thanh T 07 tháng tù, bị cáo Nguyễn Hồng L 06 tháng tù là có căn cứ, tương xứng với hành vi phạm tội và nhân thân của các bị cáo. Tại phiên tòa các bị cáo xin được hưởng án treo, mặt dù bị cáo T và bị cáo T1 đã nộp số tiền phạt bổ sung 10.000.000 đồng. Tuy nhiên, xét thấy mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử đối với các bị cáo là phù hợp. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo xin hưởng án treo của các bị cáo, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm về hình phạt.

[3] Đối với kháng cáo xin giảm nhẹ phần hình phạt bổ sung của bị cáo Trần Thị Thu T, Hội đồng xét xử thấy răng: Tại phiên tòa, bị cáo T đã tự nguyện rút lại yêu cầu kháng cáo xin giảm phần hình phạt bổ sung, xét thấy đây là sự tự nguyện của bị cáo, phù hợp với quy định của pháp luật. Do đó, căn cứ khoản 3 Điều 342 , đình chỉ yêu cầu kháng cáo xin giảm phần phạt bổ sung của bị cáo Trần Thị Thu T.

[4] Số tiền các bị cáo đã nộp sẽ được khấu trừ việc thi hành phần phạt bổ sung.

 [5] Đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa hôm nay là phù hợp với những nhận định trên nên chấp nhận.

[6] Đối với đề nghị của luật sư bào chữa cho các bị cáo Trần Thị Thu T, bị cáo Nguyễn Thanh T, bị cáo Nguyễn Hồng L là không có căn cứ chấp nhận như đã nhận định nêu trên.

[7] Do yêu cầu kháng cáo của các bị cáo không được chấp nhận, nên các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các phần quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, Căn cứ khoản 3 Điều 342; điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

QUYẾT ĐỊNH

Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo xin giảm phần hình phạt bổ sung của bị cáo Trần Thị Thu T.

Không chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của các bị cáo Trần Thị Thu T, bị cáo Nguyễn Thanh T và bị cáo Nguyễn Hồng L. Giữ nguyên Quyết định của bản án hình sự sơ thẩm về hình phạt.

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Thị Thu T, bị cáo Nguyễn Thanh T, bị cáo Nguyễn Hồng L phạm tội “Đánh bạc” .

2. Xử phạt:

2.1. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; Điều 38; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự:

- Xử phạt: Bị cáo Trần Thị Thu T 08 (Tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày đi chấp hành hình phạt tù.

2.2. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; Điều 38; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự:

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thanh T 07 (Bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày đi chấp hành hình phạt tù.

2.3. Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 38; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự:

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hồng L 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày đi chấp hành hình phạt tù.

Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Về án phí phúc thẩm: Căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 23, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Các bị cáo Trần Thị Thu T, Nguyễn Thanh T, Nguyễn Hồng L mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

308
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 49/2021/HS-PT ngày 24/02/2021 về tội đánh bạc

Số hiệu:49/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về