Bản án 49/2021/HS-PT ngày 19/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 49/2021/HS-PT NGÀY 19/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19/01/2021 tại Trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 825/2020/TLPT-HS ngày 27/10/2020 theo Quyết định đưa vụ án hình sự ra xét xử phúc thẩm số 801/2020/QĐXXPT-HS ngày 19/11/2020 đối với bị cáo Đặng Ngọc H và các đồng phạm do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 229/2020/HS-ST ngày 06/08/2020 của Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội.

Các bị cáo có kháng cáo:

1. ĐẶNG NGỌC H, sinh năm 1989; ĐKNKTT và trú tại: Số 09 ngách 95 ngõ X02, phường NĐ, quận ĐS, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Đặng Ngọc H và bà Bạch Thúy L; tiền án, tiền sự: Chưa; bị cáo đầu thú ngày 21/10/2019 và bị tạm giữ từ ngày 22/10/2019 đến ngày 31/10/2019 được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

2. DƯƠNG THỊ NH, sinh năm 1994; ĐKNKTT và trú tại: Thôn NK, xã NK, huyện T2, Thành phố Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; con ông Dương Công T và bà Nguyễn Thị N; có chồng là Nguyễn Trí H (Đã ly hôn) và 01 con, sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo đầu thú ngày 21/10/2019 và bị tạm giữ từ ngày 22/10/2019 đến ngày 31/10/2019 được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

3. NGUYỄN ĐỨC T, sinh năm 1991; ĐKNKTT và trú tại: Số nhà 37 ngách 55 ngõ LP, phố M, phường CD, quận HB, Thành phố Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; con ông Nguyễn Đức K và bà Phạm Thị H; có vợ là Dương Ánh H và 02 con; tiền án, tiền sự: Chưa; bị cáo đầu thú ngày 21/10/2019 và bị tạm giữ từ ngày 22/10/2019 đến ngày 31/10/2019 được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có bị cáo Dương Việt H không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.

Bị hại không có kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Thanh H, sinh năm 1980; ĐKNKTT và trú tại: Số nhà 590 phố Trương Định, phường Tân Mai, quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các T liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Đặng Ngọc H, Dương Thị NH, Nguyễn Đức T, Dương Trà M (Sinh năm 1998; ĐKNKTT: Tổ 65 phường Hoàng Văn Thụ, quận Hoàng Mai, Hà Nội) là nhân viên của Công ty giao hàng nhanh thuê Chi nhánh tại tầng 01 số nhà 590 phố Trương Định, phường Tân Mai, quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội. Ngày 01/10/2019, chị Lê Thị Quỳnh Anh, là quản lý Chi nhánh thông báo cho Dương Thị NH về việc di chuyển toàn bộ tài sản của Chi nhánh tại 590 phố Trương Định về kho của Công ty tại số 25 phố Trương Định vì nhà số 590 Trương Định đang có tranh chấp giữa chủ nhà là chị Nguyễn Thị Thanh H và Agribank - Chi nhánh Gia Lâm. Sau khi được chị Quỳnh Anh thông báo, NH đã nói lại sự việc trên với Đặng Ngọc H. Khoảng 16 giờ cùng ngày 01/10/2019, khi H, NH, Nguyễn Đức T và Dương Trà M đang dọn đồ thì Dương Việt H, trước đó là nhân viên của Công ty đến chơi. Trong khi dọn đồ, H có lên tầng 02 và tầng 03 của ngôi nhà và thấy có các tài sản như: ti vi, điều hòa, bình nóng lạnh, bàn ghế, giường tủ… của chủ nhà là chị Nguyễn Thị Thanh H vẫn để trong các phòng tại tầng 02 và tầng 03. Do không có chủ nhà tại đây nên H đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. H xuống tầng 01 và nói với những người còn lại nghe về ý định lấy tài sản bán lấy tiền. NH, T và Hoàng đồng ý; M không nói gì. Sau đó, H, NH và T đi lên tầng còn Dương Việt H và M ở dưới tầng 01. Khi lên xem các phòng, NH nói với H và T sẽ lấy 01 giường gỗ, 01 tủ quần áo gỗ, 01 ghế dựa gỗ; H và T đồng ý. Sau đó, H liên hệ để bán điều hòa. T liên hệ với thợ mộc để tháo giường, tủ và cùng với H, Dương Việt H bê giường, tủ đã tháo, chiếc ghế gỗ tựa lưng từ tầng 02 xuống, đưa lên xe ôtô tải do NH gọi chở về nhà NH. H gọi cho bố là ông Đặng Ngọc H (Sinh năm 1956) nói cần tìm người mua điều hòa của Công ty thanh lý. Ông Đặng Ngọc H cho H số điện thoại của anh Nguyễn Thế Xuân, anh Xuân cho H số điện thoại của anh Vũ Viết Thịnh, anh Thịnh lại cho H số điện thoại của anh Đoàn Văn Th (Sinh năm 1982; ĐKNKTT: Xuân Đài, Xuân Trường, Nam Định), là người mua bán đồ cũ để liên hệ. Anh Th đồng ý đến xem và thỏa thuận mua của H 04 bộ điều hòa với giá 6.000.000 đồng. H đi xuống tầng 01 nói về việc thỏa thuận mua bán như trên cho những người ở dưới tầng 01 nghe; NH, T, Dương Việt H đồng ý, còn M không nói gì. Sau đó, Dương Việt H đi về trước. Sau khi thỏa thuận xong, anh Th về nhà lấy đồ và rủ anh Nguyễn Văn Hải (Sinh năm 1983; ĐKNKTT: Xóm 3, Xuân Hồng, Xuân Trường, Nam Định) cùng đến để tháo điều hòa. Khi đến, anh Hải thỏa thuận mua thêm 01 bộ bàn ghế bằng gỗ (gồm 01 bàn, 04 ghế đơn, 03 ghế đôn), 01 tủ kệ gỗ với H giá 19.000.000 đồng. Ngoài ra, H còn cho anh Th 01 tivi không lấy tiền. Sau khi mua bán xong, anh Hải và Th trả cho H 25.000.000 đồng rồi thuê xe chở đồ về chỗ ở tại số 77 ngõ 295 Bạch Mai, phường Bạch Mai, quận HB, Hà Nội. Khi các anh Hải, Th vận chuyển đồ, NH và T đều biết. Sau đó, H nói cho T và NH biết việc bán thêm số tài sản trên, tổng được 25.000.000 đồng nhưng không nói cho Dương Việt H và M biết. Sau khi chuyển đồ đạc của cửa hàng về kho, H còn lấy thêm 01 chiếc bình nóng lạnh ở nhà chị Nguyễn Thị Thanh H mang về nhà để sử dụng. Số tiền bán tài sản, H chuyển cho NH 11.000.000 đồng, H giữ 14.000.000 đồng.

Ngày 19/10/2019, chị Nguyễn Thị Thanh H phát hiện mất tài sản nên đã đến cơ quan Công an trình báo. Ngày 21/10/2019, Đặng Ngọc H, Dương Thị NH, Nguyễn Đức T và Dương Việt H ra đầu thú; H và NH đã giao nộp số tiền 25.000.000 đồng.

Cơ quan điều tra đã thu giữ số tài sản trộm cắp và Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự quận Hoàng Mai kết luận về giá trị tài sản, cụ thể: 01 bình nóng lạnh nhãn hiệu Ferroli đã qua sử dụng: 650.000 đồng; 01 giường gỗ dài 1,8x2m đã qua sử dụng: 12.000.000 đồng; 01 tủ gỗ đứng 4 ngăn, đã qua sử dụng: 12.000.000 đồng; 01 ghế gỗ tựa lưng, đã qua sử dụng: 1.800.000 đồng; 01 bộ bàn ghế gồm 01 bàn, 04 ghế đơn, 03 đôn, đã qua sử dụng: 32.000.000 đồng; 01 tủ kệ gỗ đựng ti vi, đã qua sử dụng: 16.000.000 đồng; 01 điều hòa Daikin, đã qua sử dụng: 4.500.000 đồng;

01 điều hòa Nagakawa, đã qua sử dụng; 5.000.000 đồng; 01 dàn lạnh điều hòa Toshiba, đã qua sử dụng: 1.200.000 đồng; 01 lốc nóng điều hòa Toshiba, đã qua sử dụng: 600.000 đồng; 01 lốc nóng điều hòa Deawoo, đã qua sử dụng: 600.000 đồng;

01 dàn lạnh điều hòa Deawoo, đã qua sử dụng (không thu hồi được): 350.000 đồng; tivi Sony 29 inch màn hình lồi, đã qua sử dụng: 70.000 đồng (tài sản thu hồi được là vỏ, đèn hình và bảng mạch tivi Sony, đã qua sử dụng, bị tháo rời có giá trị 55.000 đồng). Tổng giá trị tài sản là 86.770.000 đồng (Trong đó, tài sản trộm cắp thu hồi được là 86.405.000 đồng; tài sản không thu hồi được là 365.000 đồng). Trong đó, Dương Việt H cùng trộm cắp: 01 giường gỗ; 01 tủ gỗ đứng 4 ngăn; 01 ghế gỗ tựa lưng; 04 bộ điều hòa Daikin, Nagakawa, Toshiba, Deawoo, tổng giá trị 38.050.000 đồng.

Bản án hình sự sơ thẩm số 229/2020/HS-ST ngày 06/8/2020 của Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai đã áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; Điều 38; các điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 (Khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s, t khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 65 đối với Dương Việt H) của Bộ luật Hình sự, xử phạt Đặng Ngọc H 40 tháng tù, Dương Thị NH và Nguyễn Đức T mỗi bị cáo 36 tháng tù; xử phạt Dương Việt H 20 tháng tù nhưng hưởng án treo đều về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định xử lý vật chứng, về án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 22/7/2020, các bị cáo Đặng Ngọc H, Dương Thị NH và Nguyễn Đức T đều có đơn kháng cáo đề nghị được giảm nhẹ hình phạt, cho các bị cáo được cải tạo tại địa phương.

Tại phiên tòa: Các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như trên và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng án treo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội sau khi đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi; vai trò, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của từng bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ các Điều 331; 333; 334; điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c, e khoản Điều 357 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo về hình thức; Về nội dung, chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Đặng Ngọc H; chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Dương Thị NH và Nguyễn Đức T; sửa bản án sơ thẩm, cụ thể: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; Điều 17; các điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Đặng Ngọc H từ 34 đến 38 tháng tù; xử phạt Dương Thị NH và Nguyễn Đức T mỗi bị cáo từ 30 đến 33 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 tháng đều về tội “Trộm cắp tài sản”.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các T liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án này, các cơ quan và người tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền, trình tự, thủ tục; không ai có ý kiến thắc mắc, khiếu nại gì. Sau khi xét xử sơ thẩm, trong thời hạn luật định các bị cáo Đặng Ngọc H, Dương Thị NH và Nguyễn Đức T có kháng cáo là hợp lệ, được chấp nhận về hình thức.

[2] Về nội dung: Ngày 01/10/2019, Đặng Ngọc H, Dương Thị NH, Nguyễn Đức T và Dương Việt H đã có hành vi trộm cắp 01 bình nóng lạnh hiệu Ferroli;

01 giường gỗ; 01 tủ gỗ đứng 4 ngăn; 01 ghế gỗ tựa lưng; 01 bộ bàn ghế gồm 01 bàn, 04 ghế đơn, 03 đôn; 01 tủ kệ gỗ đựng ti vi; 04 bộ điều hòa Daikin, Nagakawa, Toshiba, Deawoo; 01 tivi Sony có tổng trị giá 86.770.000 đồng của gia đình chị Nguyễn Thị Thanh H tại số 590 phố Trương Định, phường Tân Mai, quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội. Trong đó, Dương Việt H cùng tham gia trộm cắp: 01 giường gỗ; 01 tủ gỗ đứng 4 ngăn; 01 ghế gỗ tựa lưng; 04 bộ điều hòa Daikin, Nagakawa, Toshiba, Deawoo, có tổng giá trị 38.050.000 đồng. Hành vi nêu trên của các bị cáo Đặng Ngọc H, Dương Thị NH, Nguyễn Đức T bị Tòa án cấp sơ thẩm kết án về đồng phạm tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết tăng nặng định khung “Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của các bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Vụ án mang tính đồng phạm giản đơn với vai trò chính là Đặng Ngọc H, bị cáo là người khởi xướng, rủ rê các bị cáo khác và trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội; các bị cáo Dương Thị NH, Nguyễn Đức T, Dương Việt H đồng phạm tội với vai trò giúp sức mức độ khác nhau. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội nên Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt tù đối với các bị cáo là đúng.

Xét thấy: Sau khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo đã ra đầu thú; thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải; đã tự nguyện nộp lại số tiền thu lời bất chính để khắc phục hậu quả; tài sản các bị cáo chiếm đoạt cũng đã được thu hồi trả bị hại; về nhân thân, các bị cáo đều chưa có tiền án, tiền sự; nhất thời phạm tội lần đầu; là lao động chính trong các gia đình có điều kiện, hoàn cảnh kinh tế khó khăn; bị cáo H có mẹ đẻ mới mất; bị cáo NH đã ly hôn, đang nuôi con nhỏ; bị cáo T có 02 con nhỏ; người bị hại đề nghị giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo; đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51 và khoản 2 Điều 51 được Hội đồng xét xử xem, xét áp dụng đối với từng bị cáo.

Căn cứ tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi; vai trò; nhân thân; thái độ; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ nêu trên của các bị cáo; xét các bị cáo Dương Thị NH, Nguyễn Đức T có địa chỉ cư trú rõ ràng, phạm tội với vai trò đồng phạm giúp sức và việc không buộc các bị cáo này phải chấp hành hình phạt tù cũng không gây nguy hại cho xã hội nên Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho tất cả các bị cáo; xử phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt và cho các bị cáo Dương Thị NH, Nguyễn Đức T được hưởng án treo, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật hình sự.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật.

[4] Về án phí phúc thẩm: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án thì các bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c, e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự, sửa bản án sơ thẩm, cụ thể:

1.1) Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; Điều 17; Điều 38; các điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Đặng Ngọc H 25 (Hai mươi lăm) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đầu thi hành án, được trừ thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam (từ ngày 21/10/2019 đến ngày 31/10/2019).

1.2) Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; Điều 17; Điều 38; các điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 58; Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Dương Thị NH 20 (Hai mươi) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 40 (Bốn mươi) tháng tính từ ngày 19/01/2021.

1.3) Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; Điều 17; Điều 38; các điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 58; Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Đức T 20 (Hai mươi) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 40 (Bốn mươi) tháng tính từ ngày 19/01/2021.

1.4) Giao bị cáo Dương Thị NH cho Ủy ban nhân dân xã NK, huyện T2; giao bị cáo Nguyễn Đức T cho Ủy ban nhân dân phường CD, quận HB, Thành phố Hà Nội để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, Dương Thị NH và Nguyễn Đức T cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án này.

1.5) Các bị cáo Đặng Ngọc H, Dương Thị NH, Nguyễn Đức T không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về tội danh và hình phạt đối với bị cáo Dương Việt H; về xử lý vật chứng và án phí sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 49/2021/HS-PT ngày 19/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:49/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:19/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về