Bản án 49/2020/HSST ngày 26/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 49/2020/HSST NGÀY 26/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26/11/2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 55/2020/HSST ngày 30/10/2020. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2020/QĐXXST - HS ngày 13 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo: Đỗ Văn T - sinh năm 1975; ĐKNKTT và chỗ ở: Phố N, phường T, thành phố T, tỉnh T; nghề nghiệp: LĐTD; trình độ văn hóa: 07/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; con ông Đỗ Văn H và con bà Lê Thị N; có vợ Nguyễn Thị N và có 02 con lớn sinh năm 2006, nhỏ sinh năm 2007; tiền án: Ngày 30/10/2018 bị Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xử phạt 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đến ngày 30/11/2019 chấp hành xong hình phạt tù; tiền sự: Ngày 25/7/2018 bị Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa áp dụng biện pháp xử lý hành chính, hình thức đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng; nhân thân: Ngày 12/01/2018 bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với người nghiện ma túy, thời hạn 03 tháng; bị bắt tạm giữ: 30/7/2020; tạm giam: 05/8/2020; hiện bị cáo đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa; bị cáo có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo Đỗ Văn T bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố T truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 12h ngày 30/7/2020 tại khu vực chân cầu vượt Hàm Rồng, thuộc phố N, phường T, thành phố T, tổ công tác Công an phường T phát hiện bắt quả tang Đỗ Văn T đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tại chỗ, tổ công tác thu giữ phía bên trong chiếc mũ bảo hiểm Thành đang đội 01gói giấy chứa chất bột màu trằng, Thành khai đây là Heroin cất giấu, nhằm mục đích sử dụng.

Tại Bản kết luận giám định số 2089/PC09 ngày 04/08/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa giám định kết luận: 01(một) gói giấy màu trắng thu giữ của Thành có khối lượng 0,111gam, loại: Heroin.

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Đỗ Văn T khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy nên vào khoảng 11h ngày 30/7/2020, Thành đang điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 36K5 - 7058 đi đến khu vực ngã ba Cầu T, phường Tào X, thành phố T thì gặp một người đàn ông, khoảng 30 - 35 tuổi (Thành không rõ nhân thân, lai lịch) rủ Thành góp tiền mua ma túy để cùng sử dụng. Thành đồng ý và đưa cho cho người này 100.000đ, sau đó người này hẹn Thành ra gầm cầu Nguyệt Viên, xã Hoằng Quang đợi, Thành đi ra điểm hẹn trên đợi khoảng 40 phút thì người đàn ông trên đến và đưa cho Thành 01 gói ma túy. Thành không biết người này mua ma túy ở đâu. Sau đó, Thành cầm gói ma túy cất giấu vào mũ bảo hiểm đang đội (giữa phần vỏ mũ và phần xốp) và đi về nhà để sử dụng. Khi Thành đi đến khu vực chân cầu vượt Hàm Rồng, thuộc phố N, phường T thì bị tổ công tác Công an phường T phát hiện, bắt quả tang.

Đối với người đàn ông Thành đưa 100.000đ để mua ma túy cho Thành, quá trình điều tra Thành không biết rõ tên tuổi, địa chỉ cụ thể của người này nên không có căn cứ để xác minh, xử lý.

Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 36K5 - 7058 thu giữ của Thành, quá trình điều tra xác định đây là xe của anh Đỗ Văn L(em trai T), sinh năm 1981, trú tại SN 55 phố N, phường T, thành phố T, việc T sử dụng xe của anh L đi ma túy, anh L hoàn toàn không biết. Do vậy, cơ quan CSĐT đã trả lại xe cho anh L quản lý, sử dụng.

Cáo trạng số 321/CT-VKSTPTH ngày 29/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T truy tố Đỗ Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát thành phố T luận tội vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của BLHS, đề nghị xử phạt bị cáo từ 24 đến 30 tháng tù, tịch thu tiêu hủy số ma túy sau giám định và 01 mũ bảo hiểm cũ, màu vàng.

Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1].Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2]. Do nghiện ma túy, Vào khoảng 12h ngày 30/7/2020 Đỗ Văn Tcất giấu bên trong mũ bảo hiểm đang đội 01 gói ma túy, có khối lượng 0,111 gam loại Heroin, mục đích để sử dụng thì bị tổ công tác Công an phường T, thành phố T phát hiện, bắt quả tang và thu giữ tang vật tại khu vực chân cầu vượt Hàm Rồng, thuộc phố N, phường T, thành phố T.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát luận tội đã đánh giá đúng tính chất hành vi nguy hiểm của tội phạm, đồng thời vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Đỗ Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Bị cáo nhận tội và không có ý kiến tranh luận, lời nói sau cùng xin được giảm nhẹ hình phạt.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi nêu trên của bị cáo Đỗ Văn T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội danh và khung hình phạt áp dụng xét xử đối với bị cáo qui định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS.

[3]. Bị cáo là đối tượng biết rõ ma túy có tác hại nhiều mặt đến đời sống trong các quan hệ xã hội, ảnh hưởng xấu đến nếp sống văn hóa lành mạnh. Đặc biệt ma túy còn là một trong những tác nhân làm lây truyền căn bệnh HIV/AIDS phát triển, nhất là đối với những người có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, vì có tác hại như vậy nên nhà nước ta đã có nhiều biện pháp tuyên truyền giáo dục, nhằm ngăn chặn các tệ nạn và hoạt động có liên quan đến ma túy. Trong vụ án này bị cáo vì nghiện ma túy dẫn đến phạm tội, hành vi của bị cáo không những xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, mà còn tạo ra dư luận xấu trong nhân dân, tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, cần phải được xử lý nghiêm mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và có tính phòng ngừa chung.

[4] Trong vụ án này, bị cáo có 01tiền án chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội, nên lần phạm tội này bị cáo Đỗ Văn T phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của BLHS. Mặt khác bản thân bị cáo lại là đối tượng nghiện ma túy, đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, nhưng chưa đi cai nghiện mà tiếp tục tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, nên khẳng định bị cáo có nhân thân xấu, nên cần phải cách ly khỏi xã hội để bị cáo có thời gian cải tạo, sữa chữa sai phạm. Tuy nhiên khi lượng hình cũng cần xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo là thành khẩn khai báo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật.

Trong vụ án này bị cáo tàng trữ ma túy nhằm mục đích sử dụng, do đó không cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng: Số Heroin thu được của bị cáo là vật Nhà nước cấm lưu hành, cùng với 01 mũ bảo hiểm cũ, màu vàng là vật không có giá trị sử dụng, cần áp dụng khoản 1; điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS để tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và điểm 1 Mục I phần A của Danh mục án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự ; khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 của BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội qui định mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Bị cáo Đỗ Văn T 30(Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/7/2020.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì ma túy được niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, có hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự kèm chữ ký, chữ viết của Nguyễn Trần Đ, Nguyễn Văn T, Lê Thị Thanh L và 01 mũ bảo hiểm cũ, màu vàng hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T theo biên bản giao nhận vật chứng số 36/THA ngày 12/11/2020.

Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí HSST.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 7, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 49/2020/HSST ngày 26/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:49/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:26/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về