TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI AN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 49/2020/HSST NGÀY 23/12/2020 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 23 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hải An, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 49/2020/TLST-HS ngày 27 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2020/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 12 năm 2020, đối với bị cáo:
Đỗ Duy Kh, sinh ngày 10 tháng 4 năm 1990 tại Hải Phòng. Nơi ĐKHKTT: Số 6/82/152 Ch, phường D, Quận L, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Duy T và bà Nguyễn Thị C; có vợ là Lê Vân A và 01 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 12/QĐ-XPVPHC ngày 05/6/2019, Công an phường N, Quận L, Hải Phòng phạt tiền 1.000.000 đồng về hành vi đánh bạc trái phép bằng hình thức đánh ù (đã được xóa); tạm giữ từ ngày 17/9/2020, chuyển tạm giam từ ngày 23/9/2020; có mặt.
- Bị hại: Bà Đặng Thị Thanh V, sinh năm 1959. ĐKHKTT: Tổ 67 Ngh, Quận L, Hải Phòng; nơi ở: Số 10 đường 356, tổ dân phố Đ, phường Đ 2, quận H, Hải Phòng; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Vũ Thị X, sinh năm 1982. ĐKHKTT: Thôn L, xã B, huyện Th, Hải Phòng; nơi ở: Thôn 9, xã T, huyện Th, Hải Phòng; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 30/8/2020, Kh mượn xe mô tô nhãn hiệu Honda SH Mode màu trắng, nâu BKS: 15B1-989.52 của bà Đặng Thị Thanh V, để đi đón bạn tên M (chưa rõ lai lịch, địa chỉ) tại khu vực C, phường Đ, quận H, Hải Phòng. Sau khi chở bạn đến quán ăn ở đường Ng, quận H, Hải Phòng Kh đã nảy sinh ý định bán chiếc xe để lấy tiền trả nợ. Kh một mình điều khiển xe đi tìm nơi bán. Khoảng 14 giờ ngày 31/8/2020, Kh đến quán cà phê, gội đầu tại thôn 9, T, Th, Hải Phòng, bán chiếc xe mô tô cho chị Vũ Thị X với giá 9.600.000 đồng. Kh nói với chị X đây là xe của Kh và đưa chứng minh thư, sổ hộ khẩu phô tô làm tin. Số tiền bán xe Kh đã tiêu xài cá nhân hết 9.100.000 đồng. Ngày 17/9/2020, Kh đến Công an quận H đầu thú và giao nộp số tiền còn lại là 500.000 đồng và 01 điện thoai di động nhãn hiệu Iphone màu vàng, ốp lưng bằng silicon bên trong chứa sim điện thoại số 0928716390. Ngày 17/9/2020, chị Vũ Thị X đã giao nộp chiếc mô tô nhãn hiệu Honda SH Mode BKS: 15B1-989.52.
Tại bản Kết luận định giá trong tố tụng hình sự ngày 17/9/2020 kết luận: Giá trị chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda SH Mode BKS: 15B1-989.52 là: 46.200.000 đồng.
Tại Cáo trạng số 49/CT-VKS ngày 25/11/2020, Viện Kiểm sát nhân dân quận Hải An truy tố Đỗ Duy Kh về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Hải An luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Căn cứ khoản 1 Điều 175, Điều 38, điểm i, s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 15-21 tháng tù về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
- Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo phải trả lại cho chị Vũ Thị X số tiền 9.600.000 đồng.
- Về xử lý vật chứng: Tạm giữ 01 chiếc điện thoại bên trong chứa sim điện thoại số 0928716390 và số tiền 500.000 đồng đã thu giữ của bị cáo để đảm bảo việc thi hành án.
- Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.
Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi như nêu trên và khai: Bị cáo quen biết bà Đặng Thị Thanh V khoảng 3 năm nay. Đầu tháng 8/2020 bị cáo thuê tầng 1 ngôi nhà của bà V tại số 10 đường 356, tổ dân phố Đ, phường Đ 2, quận H, Hải Phòng để ở và bán hàng. Ngày 30/8/2020 khi mượn xe mô tô BKS: 15B1-989.52 của bà V bị cáo chỉ định đi đón bạn xong về sẽ trả lại xe cho bà V. Nhưng sau khi mượn được xe, vì nghĩ đến khoản nợ phải trả nên bị cáo đã nảy sinh ý định bán xe lấy tiền trả nợ. Bị cáo rất hối hận về hành vi của mình và mong bà V tha thứ cho bị cáo. Đối với số tiền bán xe 9.600.000 đồng bị cáo đồng ý trả lại cho chị Vũ Thị X, nhưng hiện tại không có điều kiện nên bị cáo sẽ trả cho chị X sau. Bị cáo ăn năn, hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Bị hại- Bà Đặng Thị Thanh V trình bày: Bà V quen biết bị cáo từ nhiều năm nay. Do thương hoàn cảnh của bị cáo khó khăn và bị cáo là người chịu khó làm ăn nên bà V đã bỏ tiền làm quán cho bị cáo ở và bán hàng tại tầng 1 nhà bà V. Vì tin tưởng bị cáo nên bà V đã cho bị cáo mượn xe mô tô Honda SH Mode màu trắng, nâu BKS: 15B1-989.52 vào sáng ngày 30/8/2020. Bà V đã nhận lại xe, không yêu cầu bị cáo bồi thường và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
- Về tố tụng:
[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hải An, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Hải An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
- Về tội danh:
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa và tại cơ quan điều tra phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của bị hại, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xét có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 30/8/2020, bị cáo có hành vi mượn xe mô tô nhãn hiệu Honda SH Mode, BKS: 15B1-989.52, trị giá 46.200.000 đồng, của bà Đặng Thị Thanh V. Sau đó bị cáo dùng thủ đoạn gian dối bán xe mô tô và bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác, gây mất trật tự, trị an ở địa phương. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đã có đầy đủ yếu tố cấu thành tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, quy định tại khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự.
- Về hình phạt:
[3] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình giải quyết vụ án, bị cáo đã thành khẩn khai báo, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau khi hành vi phạm tội bị phát hiện bị cáo đã đầu thú, bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[4] Xét về nhân thân: Bị cáo có 01 tiền sự đã được xóa, có nhân thân không tốt.
[5] Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, xét cần cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.
[6] Theo khoản 5 Điều 175 của Bộ luật Hình sự, ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Xét bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, không nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
- Về trách nhiệm dân sự:
[7] Bị hại đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xét.
[8] Chị Vũ Thị X yêu cầu bị cáo trả lại số tiền bán xe là 9.600.000 đồng. Xét giao dịch mua bán xe mô tô Honda SH Mode, BKS: 15B1-989.52 giữa bị cáo và chị X vi phạm điều cấm của luật nên bị vô hiệu theo Điều 123 của Bộ luật Dân sự. Chị X không biết chiếc xe mô tô do bị cáo chiếm đoạt của người khác mà có. Bị cáo cũng đồng ý trả lại số tiền bán xe cho chị X nên yêu cầu này của chị X được chấp nhận theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự và Điều 131 của Bộ luật Dân sự.
- Về xử lý vật chứng:
[9] 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng, ốp lưng Silicon bên trong chứa sim điện thoại số 0928716390 và số tiền 500.000 đồng thu giữ của bị cáo cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
- Về án phí:
[10] Bị cáo phải nộp án phí hình sự và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
- Những vấn đề khác:
[11] Đối với xe mô tô Honda SH Mode, màu trắng - nâu, BKS: 15B1- 989.52, ngày 29/9/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an quận Hải An đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là bà Đặng Thị Thanh V là có căn cứ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 175, Điều 38, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm b khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự; Điều 135, Điều 136, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 123, Điều 131 của Bộ luật Dân sự; điểm a khoản 1 Điều 23, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội, xử phạt: Đỗ Duy Kh 15 (mười lăm) tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 17/9/2020.
Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo phải trả lại cho chị Vũ Thị X số tiền 9.600.000đ (chín triệu sáu trăm nghìn đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của chị Vũ Thị X cho đến khi thi hành án xong, bị cáo còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
Về xử lý vật chứng:
Tạm giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng, ốp lưng Silicon bên trong chứa sim điện thoại số 0928716390 và số tiền 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) để đảm bảo thi hành án.
(Theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản lập vào hồi 10 giờ 00 phút ngày 27/11/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hải An, Hải Phòng và Biên lai thu tiền số 0002909 ngày 27/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Hải An, Hải Phòng).
Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 480.000đ (bốn trăm tám mươi nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án đựơc thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi thành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành dân sự đựơc thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 49/2020/HSST ngày 23/12/2020 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 49/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Hải An - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về