Bản án 49/2020/HNGĐ-ST ngày 23/12/2020 về kiện xin ly hôn 

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 49/2020/HNGĐ-ST NGÀY 23/12/2020 VỀ KIỆN XIN LY HÔN 

Trong ngày 23/12/2020 tại Hội trường Toà án nhân dân thành phố Đồng Hới, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 277/2020/TLST- HNGĐ ngày 08/10/2020 về việc “Kiện xin ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 126/2020/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 11 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số: 87/2020/QĐST-HNGĐ ngày 25 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Thùy L; sinh năm: 1993; nơi ĐKHKTTvà chổ ở hiện nay: Thôn MT 2, xã HT, huyện L, tỉnh Quảng Bình. Có mặt

- Bị đơn: Anh Phạm Quốc H; sinh năm: 1987; nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Nhà số 3 ngõ 38 đường NĐT, tổ dân phố 12, phường N, thành phố H, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt lần thứ hai không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Về quan hệ hôn nhân:

* Trong đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 01/10/2020, được bổ sung tại bản tự khai, phiên hòa giải và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chị Trần Thị Thùy L trình bày: Chị và anh Phạm Quốc H đăng ký kết hôn vào ngày 20/6/2016 tại UBND phường QT, thị xã BĐ, tỉnh Quảng Bình, việc kết hôn hoàn toàn tự nguyện, không ai ép buộc. Sau khi kết hôn hai vợ chống sống chung với nhau được hai năm, đến năm 2018 hai vợ chồng phát sinh mâu thuẩn. Nguyên nhân mâu thuẩn do hai vợ chồng bất đồng quan điểm, không tìm được tiếng nói chung, thường xuyên cãi nhau. Mục đích hôn nhân không đạt được, mặc dù cả hai vợ chồng đều đã cố gắng khắc phục nhưng không có kết quả. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 11/2018 cho đến nay, không quan tâm đến nhau, tình cảm vợ chồng không còn thương yêu nhau nữa. Nên chị có nguyện vọng xin được ly hôn với chồng là anh Phạm Quốc H.

* Tại bản tự khai, qua buổi hòa giải anh Phạm Quốc H trình bày: Anh và vợ là chị Trần Thị Thùy L đăng ký kết hôn vào ngày 20/6/2016 tại UBND phường QT, thị xã BĐ, tỉnh Quảng Bình. Trong hôn nhân cũng như bao cặp vợ chồng khác cũng có vui vẻ, có tiếng cười, có mâu thuẩn cãi nhau, hiểu lầm cãi cọ, tất cả đều là những chuyện rất thường tình của cuộc sống hôn nhân. Tuy nhiên, vì có một số mâu thuẩn nhỏ mà chị L cho rằng là rất lớn nên chị L đã bỏ đi từ ngày 14/11/2018 và một mực muốn ly hôn, đây là điều mà bản thân anh không hề mong muốn và cũng chưa hề nghĩ tới. Bản thân anh hiện vẫn rất thương và yêu vợ mình, anh có đề nghị Quý Tòa xem xét giải quyết để vợ chồng có thể hòa giải và quay trở về với nhau. Anh cũng thừa nhận hiện nay hai vợ chồng đã sống ly thân từ tháng giữa tháng 11/2018 cho đến nay, tuy có đôi lần liên lạc nhưng chỉ là cãi nhau. Còn trong trường hợp chị L vẫn một mực muốn chấm dứt quan hệ vợ chồng là vẫn giữ nguyên ý kiến xin ly hôn với anh thì anh mong Tòa án giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.

- Về nuôi con chung: Anh H, chị Thùy L thừa nhận quá trình chung sống không có con chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về chia tài sản chung và nợ chung: Chị L, anh H thừa nhận không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới đã tiến hành triệu tập các bên đương sự đến làm bản tự khai, tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tiến hành hai phiên hòa giải. Phiên hòa giải ngày 27/10/2020 chị L và anh H chưa thống nhất được các mối quan hệ và phiên hòa giải sau đó anh H đều vắng mặt không có lý do. Tòa án đã lập biên bản hòa giải không thành và biên bản về việc không tiến hành hòa giải được. Vụ án thuộc trường hợp hòa giải không thành nên Tòa án đã ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử, tiến hành tống đạt và niêm yết các thủ tục tố tụng cho các bên đương sự theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả hỏi tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Chị Trần Thị Thùy L có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới giải quyết ly hôn theo quy định tại Khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự là nơi bị đơn anh Phạm Quốc H có địa chỉ cư trú tại: Nhà số 3 ngõ 38 đường NĐT, tổ dân phố 12, phường N, thành phố H, tỉnh Quảng Bình. Căn cứ vào Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới.

Sau khi thụ lý vụ án theo đúng thẩm quyền, Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới đã ra thông báo thụ lý vụ án và gửi cho các bên đương sự kèm theo giấy triệu tập đến Tòa án để làm bản tự khai. Tòa án tiến hành thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tiến hành phiên hòa giải theo quy định của pháp luật. Tại phiên hòa giải ngày 27/10/2020 chị L và anh H chưa thống nhất được các mối quan hệ, nên buổi hòa giải không thành. Sau đó vào ngày 06/11/2020 Tòa án đã tiến hành phiên hòa giải nhưng anh H vắng mặt không có lý do, mặc dù Tòa án đã triệu tập hợp lệ nên Tòa án lập biên bản không tiến hành hòa giải được. Vì vậy, Tòa án ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 126/2020/QĐST- HNGĐ ngày 10/11/2020 và tiến hành tống đạt, niêm yết các thủ tục tố tụng cho các bên đương sự theo quy định của pháp luật. Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử, nhưng bị đơn anh H vắng mặt tại phiên tòa lần thứ nhất không có lý do. Do đó, HĐXX ra Quyết định hoãn phiên tòa số: 87/2020/QĐST- HNGĐ ngày 25/11/2020 và ấn định thời gian xét xử vào ngày 23/12/2020 theo đúng quy định tại Điều 227, 233 Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa lần thứ hai, bị đơn anh H vẫn vắng mặt không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ; HĐXX căn cứ vào khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luât tố tụng dân sự, phiên tòa vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh Phạm Quốc H.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Chị Trần Thị Thùy L và anh Phạm Quốc H đã xây dựng gia đình với nhau trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 20/6/2016 tại UBND phường QT, thị xã BĐ, tỉnh Quảng Bình và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 38/2016, nên đây là một cuộc hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn chị L và anh H đều thừa nhận có sống hạnh phúc với nhau một thời gian ngắn được hai năm, đến năm 2018 hai vợ chồng phát sinh mâu thuẩn. Nguyên nhân mâu thuẩn do hai vợ chồng bất đồng quan điểm, không tìm được tiếng nói chung, thường xuyên cãi nhau, mục đích hôn nhân không đạt được. Mặc dù cả hai vợ chồng đều đã cố gắng khắc phục nhưng không có kết quả. Hiện nay anh chị đã sống ly thân từ giữa tháng 11/2018 cho đến nay, không quan tâm gì đến nhau nữa, tuy có đôi lần liên lạc nhưng chỉ là cãi nhau. Anh H tại bản tự khai và buổi hòa giải ngày 27/10/2020 có nguyện vọng vợ chồng đoàn tụ; tuy nhiên trong trường hợp chị L vẫn một mực muốn chấm dứt quan hệ vợ chồng là vẫn giữ nguyên ý kiến xin ly hôn với anh thì anh mong Tòa án giải quyết theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, phiên hòa giải sau đó và tại phiên tòa anh H đều vắng mặt không có lý do, điều đó thể hiện thái độ thờ ơ, ý chí bỏ mặc của anh đối với mối quan hệ vợ chồng. Tại phiên tòa chị L vẫn kiên quyết xin được ly hôn với anh H; chị cho rằng vợ chồng đã nhiều lần ngồi lại nói chuyện nhưng không có kết quả, mỗi lần gặp nhau là cãi nhau, chị đã không còn niềm tin ở anh nữa. Hội đồng xét xử xét thấy vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau cùng chia sẻ và thực hiện các công việc trong gia đình, nhưng anh chị đã không còn quan tâm đến nhau, đời sống chung không còn tồn tại, cuộc sống không ai quan tâm đến ai, mục đích hôn nhân không đạt được, nên xử cho chị L được ly hôn anh H theo nguyện vọng của chị L là hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về nuôi con chung:

Anh H, chị Thùy L thừa nhận quá trình chung sống không có con chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. HĐXX không xem xét.

[4] Về chia tài sản và nợ chung:

Chị L, anh H thừa nhận không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. HĐXX không xem xét.

[5] Về án phí:

Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự; khoản 5, khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Trần Thị Thùy L phải chịu 300.000 đồng để sung quỹ Nhà nước nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số AA/2017/0006642 ngày 08/10/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đồng Hới.

[6]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Khoản 1 Điều 28; điểm a Khoản 1 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 39; Khoản 4 Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 147 BLTTDS; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Áp dụng các Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Thùy L được ly hôn anh Phạm Quốc H.

2. Về án phí: Án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Trần Thị Thùy L phải chịu 300.000 đồng để sung quỹ Nhà nước nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số AA/2017/0006642 ngày 08/10/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đồng Hới.

Án xử công khai, nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 23/12/2020). Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án hạn trong 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết tại chính quyền địa phương.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

241
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 49/2020/HNGĐ-ST ngày 23/12/2020 về kiện xin ly hôn 

Số hiệu:49/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Hới - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về